GIÁO XỨ CHÍNH TÒA PHAN THIẾT HÂN HOAN CHÀO ĐÓN CÁC BẠN

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

Lễ Thánh Gia

CHÚA GIÊSU, ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE

(Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng Sinh)
Trong Tuần Bát Nhật, lịch phụng vụ có ghi một lễ mừng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong xã hội ngày nay : đó là Lễ Thánh Gia Thất : Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse (tên gọi như trong Sách Lễ Rôma, ấn bản mẫu II, 1992, tr. 159-161). Hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ này xét về khía cạnh phụng vụ : lễ Thánh Gia thất có ý nghĩa nào, nói kiểu khác, lễ này được hiểu như thế nào trong bối cảnh Mùa Giáng Sinh và áp dụng vào trong bối cảnh xã hội ngày này ?
I. LỄ THÁNH GIA THẤT TRONG BỐI CẢNH MÙA GIÁNG SINH
1. Lễ Thánh gia thất trong việc canh tân Năm phụng vụ và Lịch phụng vụ
Như chúng ta biết, trong Mùa Giáng sinh, ngoài lễ trọng Giáng sinh ra, chúng ta còn có những lễ mừng khác, như Lễ Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa, cử hành vào ngày bát tuần Lễ Giáng Sinh, cũng là ngày đầu năm mới dương lịch, mồng một tháng giêng. Tiếp theo sau đó là ngày lễ Hiển Linh, tức là lễ Ba Vua; Sau cùng là lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, như là kết thúc Mùa Giáng Sinh. Tất cả những lễ này đều đã có trong phụng vụ Giáo hội bên Đông cũng như bên Tây, từ lâu đời, và có nền tảng là các sự kiện trong lịch sử thánh. Trong khi đó Lễ Thánh Gia thất không có tính cách lâu đời như các lễ kia; ngoài ra lễ Thánh Gia thất có nguồn gốc từ một phong trào tu đức mới đây cổ võ việc thánh hóa gia đình, thịnh hành tại một số nơi, nhất là tại Canađa, sau đó phong trào nàyđược phổ biến trong toàn thể Giáo hội.
Rồi lễ Thánh Gia thất và lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là hai lễ được sắp xếp lại từ khi cải tổ Năm phụng vụ và lịch phụng vụ vào năm 1969ï, do Công đồng Vaticanô II khởi xướng : như lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, trước đây mừng vào ngày 11 tháng 10 hằng năm. Ngày nay thì mừng vào ngày đầu năm mới, mồng một tháng giêng.
Lễ Thánh Gia thất trước kia mừng vào Chúa nhật sau Lễ Hiển Linh. Nhưng ngày nay Chúa Nhật sau lễ Hiển Linh được dành để cử hành biến cố Chúa Giêsu Kitô chịu phép rửa. Vì thế Lịch phụng vụ ban hành năm 1969, đã xếp vào lễ Thánh Gia thất được cử hành vào Chúa Nhật trong tuần bát nhật lễ Giáng sinh, hoặc nếu không có Chúa Nhật, thì mừng vào ngày 30 tháng 12 mỗi năm.
Ở đây tôi phải mở một dấu ngoặc về một nguyên tắc căn bản để xác định các lễ được cử hành trong phụng vụ. Nguyên tắc căn bản này có nghĩa là phụng vụ luôn và hầu như chỉ cử hành các biến cố trong lịch sử cứu rỗi. Một số rất ít lễ được thiết lập để cử hành một tín điều. Về điểm này, chúng ta có thí dụ cụ thể nhất, đó là Lễ Chúa Ba Ngôi, lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, lễ ngoại lịch về lòng nhân từ của Thiên Chúa, mới được đưa vào trong Sách Lễ Rôma. Lý do làm nền tảng cho nguyên tắc này : là vì phụng vụ tưởng niệm lại lịch sử cứu rỗi, để tung hô và ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử thánh. Cho nên đây là điều hợp lý. Vậy có rất ít lễ cử hành theo một tư tưởng... như chúng ta vừa nói ra trên đây. Vì thế biến cố Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, sống tại Nagiarét, là một sự kiện trong lịch sử thánh, tuy nhiên Năm phụng vụ đã cử hành riêng từng Vị trong các lễ khác nhau rồi.
2. Lịch sử việc thành hình Lễ Thánh gia thất
Xét về việc thành hình lễ Thánh Gia thất, chúng ta thấy đây cũng là một biến chuyển khác thường. Phải nói là lễ Thánh Gia thất mới có đây và xuất hiện gần với chúng ta, tức là vào năm 1921. Vào năm 1893, người ta thấy có việc cử hành lần đầu tiên một lễ kính Thánh gia thất, do lời xin với Tòa Thánh từ các giáo phận hoặc các Dòng tu có lòng tôn sùng Thánh gia thất. Và lễ này được xác định cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Hiển Linh. Chúng ta nhớ là vào thời trước việc cải tổ niên lịch phụng vụ do Công đồng Vaticanô II, thì sau lễ Hiển Linh còn có mấy tuần, rồi mới tới Mùa Chay.
Lễ này đi kèm với một lòng sùng một Thánh gia thất, vào thế kỷ thứ 19, bắt đầu trước tiên từ bên Canađa, như chúng ta nói trên đây. Dần dần lòng sùng mộ Thánh Gia lan rộng ra khắp hoàn cầu. Phong trào này được Đức Giáo hoàng Lêô thứ XIII khuyến khích. Vào thời kỳ này, người ta nhận thấy các gia đình bị tục hóa, và như vậy gia sản thiêng liêng, các giá trị của gia đình bị tiêu tán. Có nguy cơ gia đình bị băng hoại hoàn toàn. Chính vì thế tín hữu tìm tới gia đình gương mẫu tại Nagiarét để giúp các gia đình công giáo sống đạo và sống ơn bí tích hôn phối.
Lễ Thánh gia thất trước đây chỉ cho phép một số nơi cử hành, sau đó mới lan ra trong toàn thể Giáo hội, tuy nhiên cũng chưa có được chỗ đứng vững chắc trong Năm phụng vụ. Vì vào năm 1911, trong Sách Lễ Rôma, do Đức Giáo hoàng Piô X cho tu sửa và công bố, cũng không có lễ Thánh gia thất. Sau đó vào năm 1920, lễ Thánh gia thất mới lại được đưa vào trong Sách lễ Rôma, và chỉ định ngày Chúa nhật thứ I sau lễ Hiển Linh. Ngày 26 tháng 10 năm 1921, Thánh Bộ Nghi lễ đã ra một sắc lệnh truyền cử hành một số lễ trong toàn thể Giáo hội, trong số lễ này, có lễ Thánh Gia thất, được cử hành vào Chúa nhật Bát nhật sau lễ Hiển Linh (S. Congregatio Rituum, die 26-10-1921, AAS, 13 (1921, tr. 543-544).
Năm 1969, khi cải tổ Lịch phụng vụ cho toàn thể Giáo hội, thì lễ này được dịch sang Chúa nhật trong Tuần Bát nhật Lễ trọng Giáng sinh, hoặc nếu không có ngày Chúa Nhật, thì cử hành vào ngày 30 tháng 12, như chúng ta thấy ngày nay.
II. NỘI DUNG THẦN HỌC PHỤNG VỤ CỦA LỄ THÁNH GIA THẤT
Nói về nội dung thần học của Lễ Thánh Gia thất, chúng ta có thể nhắc lại tư tưởng Thánh Bộ Nghi lễ, khi ban hành việc mở rộng Lễ Thánh Gia thất cho toàn thể Giáo hội, vào năm 1921. Sắc lệnh nói như sau : việc mừng lễ Thánh Gia thất với một lễ phụng vụ là một điều rất thích hợp và giúp cho việc phát triển lòng sùng mộ đối với Thánh gia. Ngoài ra nhờ việc cử hành này, mà chúng ta suy niệm và bắt chước các nhân đức của các thành phần thánh thiện trong gia đình Nagiarét. Như vậy việc mừng lễ Thánh gia thất có chủ đích thần học là để ca tụng tôn vinh Ba Đấng thánh trong nhà Nagiarét. Trong khi mừng lễ này, Giáo hội cũng muốn nêu gương Thánh Gia cho các gia đình công giáo chiêm ngưỡng bắt chước, như trong Lời nguyện đầu lễ được đọc lên như sau: ² Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề caoThánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời² (xc. Lời nguyện hiệp lễ cũng một ý tưởng trên đây) . Đức Thánh Cha Phaolô đã quảng diễn việc noi gương Thánh Gia tại Nagiarét như sau: ² Thứ đến là bài học về đời sống gia đình. Ước chi Nagiarét dạy cho chúng ta biết ý nghĩa của gia đình, của sự hiệp thông trong tình yêu, của vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, cũng như tính cách linh thánh và bất khả xâm phạm của gia đình. Ước chi Nagiarét chỉ cho chúng ta biết rằng việc huấn luyện tại gia đình êm dịu biết dường nào, và không có gì có thể thay thế được. Ước chi Nagiarét dạy cho chúng ta biết vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội² (Sách Các giờ kinh phụng vụ, tập I, Lễ Thánh Gia Thất, Giờ Kinh sách, Lễ Thánh gia thất).
Nều nhìn vào sự kiện Lễ Thánh Gia thất được cử hành vào Chúa Nhật giữa Lễ Chúa Giêsu giáng sinh và Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, điều này cũng cho ta nhiều ý nghĩa. Trước tiên, lễ Thánh Gia thất mặc khải và minh chứng mầu nhiệm nhập thể cách cụ thể : vì Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, có một gia đình như bao người khác, sống trong một gia đình như chúng ta. Việc Ngài sống trong một gia đình, cũng là một biểu hiệu, Ngài muốn đem nhân loại vào trong sự hiệp thông trọn vẹn của gia đình Chúa Ba Ngôi. Rồi trong dịp Lễ Giáng sinh và Đầu Năm khi người ta thường trở về gia đình, lớn hay nhỏ, để mừng lễ Giánhg Sinh và Tết Dương Lịch, thì gương mẫu của Gia đình Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, trở nên mầu gương sống động cho mọi phần tử trong gia đình từ cha mẹ đến con cái trong cuộc sống đức tin và hiếu thảo. Các bài sách thánh và các kinh nguyện gợi ý rõ ràng về điểm sau cùng này.
Theo Sách Mục lục các Bài đọc trong thánh lễ, ấn bản mẫu thứ hai, ban hành vào năm 1981 (Ordo lectionum Missae, editio typica 1981), chúng ta có cơ cấu và sự sắp xếp như sau:
Trước tiên là Bài Sách Phúc âm cho ba năm A B và C : rút từ các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Sách tin mừng theo Thánh Mathêô và Luca : nói về việc Thánh Gia trốn sang Ai cập (Mt 2,13-15); việc dâng Chúa Giêsu trong đền thờ để cử hành lễ đặt tên cho con trẻ và thanh tẩy cho bà mẹ theo như luật dạy (Lc 2,22-40); rồi biến cố Con trẻ Giêsu lạc mất trong đền thờ. Ba biến cố này nằm trong khung cảnh tôn giáo Do thái và trong phạm vi gia đình thật rõ ràng; vai trò của thánh Giuse và Đức Mẹ được nhận ra trong khung cảnh một gia đình, như các gia đình khác; còn Chúa Giêsu được mô tả như một người con của gia đình, nhưng Ngài cũng cho thấy Ngài hướng về, và giúp chúng ta hướng về một gia đình cao trọng hơn, trong đó Thiên Chúa là Cha.
Tiếp theo là các bài Sách Cựu ước giúp quảng diễn thêm về sứ điệp trong bài Phúc âm. Tất cả được chọn cho từng năm một, để cho thấy cái nhìn của Cựu ước về lòng hiểu thảo với Cha Mẹ được Thiên Chúa chúc lành (Hc 3,3-, năm A); ca tụng lòng hiếu thảo (St 15,1-6; 21,1-3, năm B); mô tả gia đình của Samuel, với cha mẹ đạo đức, tuân giữ lề luật Chúa (1Sam 1,20-28).
Sau cùng là ba bài thư của các Tông đồ, là những áp dụng cụ sứ điệp của Tin Mừng của Chúa Kitô kể vào trong gia đình : bài sách thánh cổ điển nhất, rút từ thư gửi giáo đoàn Coloxê, nói về bổn phận của từng phần tử trong gia đình : vợ chồng, cha mẹ, con cái (Cl 3,12-21, năm A, hoặc cả ba năm). Trong năm B đọc thư gửi tín hữu Do thái, trình bày gương đức tin của gia đình ông Abraham (Dt 11,8.11-12.17-19, năm B); còn năm C, bài trích từ thư thứ I của Thánh Gioan, nói về tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta và giới luật bác ái, và bây giờ luật này áp dụng vào đời sống gia đình (1Ga 3,1-2.21-24). Vì các bài đọc Cựu Ước và Thư các Tông đồ được thêm vào cho năm B và C, chưa được dịch sang tiếng Việt, nên chúng ta chưa xử dụng được và hiểu biết về sứ điệp về gia đình.
Riêng đối với mỗi người bài học gia đình Nagiarét được Đức Thánh Cha Phaolô VI quảng diễn như sau trong bài giảng của Ngài tại Nagiaret vào năm 1964, như sau : ² Nagiarét là trường học để ta khởi sự tìm hiểu cuộc đời của Đức Giêsu; đó là trường học của Tin Mừng.
Tại đây trước tiên chúng ta học quan sát, học lắng nghe, chiêm niệm và thấu hiểu ý nghĩa vừa rất sâu xa, vừa rất huyền diệu của Con Thiên Chúa xuất hiện cách đơn sơ, khiêm tốn và dễ thương. Có lẽ chúng ta còn phải học để ầm thầm noi theo.
Tại đây chúng ta học được phương pháp giúp ta hiểu Đức Kitô là ai. Tại đây chúng ta nhận ra cần phải quan sát khung cảnh nơi Nguời cư ngụ giữa chúng ta : địa điểm, thời gian, phong tục,ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo,và tất cả hững gì Đức Giêsu đã sử dụng để mặc khải chính mình cho thế gian. Tại đây, mọi sự đều lên tiếng, mọi sự đều có ý nghĩa. ....² (Sách Các giờ kinh phụng vụ, tập I, Lễ Thánh Gia Thất, Giờ Kinh sách, Lễ Thánh Gia thất, Chúa Giêsu Kitô, Đức Maria, Thánh Giuse).
Như vậy việc cử hành lễ Thánh gia thất, mang nhiều ý nghĩa : trong phạm vi thần học, lễ này làm nổi bật mầu nhiệm nhập thể; trong khía cạnh phụng vụ, lễ này hướng về Giáo hội như là gia đình tế tự và cầu nguyện tôn vinh Thiên Chúa; và sau cùng theo ý nghĩa tu đức, nhờ gương gia đình thánh tại Nagiarét, các gia đình công giáo biết sống trưởng thành trong đức tin, đức cậy, đức ái, giữa các phần tử trong gia đình và trong mọi cảnh huống, khi hạnh phúc may lành cũng như khi hoạn nạn khổ đau, như trong Lời nguyện hiệp lễ đọc như sau : ² Lạy Cha nhân từ, Cha đã nuôi dưỡng chúng con nơi bàn tiệc thánh thể, xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Gia Thất, để sau đời khổ ải, được cùng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh cả Giuse hưởng vinh phúc muôn đời² . Amen.

Ngày 27-12, Thánh Gioan Tông Đồ, Thánh Sử

Một trong những vị tông đồ đã nói về tình yêu nhiều nhất là Gioan, thánh sử. Vị tông đồ trẻ,� được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt vì đời sống trinh nguyên, thánh thiện đã để lại cuốn Phúc Âm� thứ tư thuật lại tất cả đời sống của Chúa Giêsu. Thánh nhân đã được Giáo Hội mở đầu ca nhập lễ bằng những lời này:" Thánh Gioan ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly. Hạnh phúc thay vị Tông Ðồ, đã được tỏ cho biết các mầu nhiệm trên trời, và đã phổ biến lời hằng sống trên khắp thế gian ( Hc 15, 5 ).

THÁNH GIOAN TÔNG ÐỒ

Thánh Gioan quê ở Bethsaiđa, xứ Galilêa. Thánh Gioan như nhiều Tông đồ khác, trước khi được Chúa mời gọi, đã làm nhiều nghề khác nhau trong xã hội Do Thái lúc đó. Có vị làm nghề lao động chân tay, làm vườn, có vị làm nghề thu thuế và hầu hết các Tông đồ trước kia làm nghề chài lưới. Thánh Gioan đã cùng cha của mình là Giêbêđê và anh là Giacôbê làm nghề chài lưới. Tin Mừng có đoạn đã thuật lại việc hai ông Giacôbê và Gioan có lẽ đã xúi mẹ mình tới xin xỏ với Chúa Giêsu: một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Chúa Giêsu trong nước của Chúa ( Mt 20, 21 ). Gioan là một trong số mười hai Tông đồ được Chúa Giêsu yêu thương nhất vì rằng Gioan và Phêrô đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm cho con gái ông Zairô sống lại. Thánh Gioan, Giacôbê và Phêrô đã từng được hưởng giờ phút ngây ngất trên núi Tabôrê khi Chúa biến hình( Mt 16, 1-8; Mc 9,2-8; Lc 9, 28-36 ) và các Ngài cũng được thông chia, hiệp thông giây phút đau khổ nhất của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu ( Mt 26, 36- 42 ). Thánh Gioan cũng được hạnh phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly và dưới chân Thập Giá, thánh Gioan đã được hạnh phúc lớn lao, Chúa Giêsu trối Ðức Mẹ cho Người và ngược lại:" Ðây là Mẹ của con "( Ga 20, 27 ).Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. Thánh Gioan còn được hân hạnh thông báo cho thánh Phêrô biết Chúa đã phục sinh trong buổi sáng Chúa Giêsu sống lại ( Ga 20, 1-10 ).

THÁNH GIOAN CON NGƯỜI QUÁ ÐẶC BIỆT

Suốt cuộc đời của thánh Gioan từ khi Chúa kêu gọi ông, cho tới khi Ông nhắm mắt lìa đời, lúc nào thánh Gioan cũng được ở gần bên Chúa và lúc nào Ông cũng được chứng kiến những việc Chúa làm. Vì được Chúa yêu như thánh Gioan tự giới thiệu:" người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến"( Ga 13, 23; 19, 26; 20, 2.). Thánh Gioan đã làm chứng rằng Ngài sống bên Chúa, cùng ăn, cùng phục vụ với Chúa(Ga 21, 13 ). Thánh Gioan là một trong vài người đã thấy ngôi mộ trống và là một nhân chứng cho biến cố phục sinh. Ðời sống của thánh Gioan quả thật đặc biệt, thánh Augustinô đã nói:" Từ trong lồng ngực Chúa, Gioan đã tìm thấy nguồn suối ban cho chúng ta thứ nước không còn khát và sự hiểu biết". Origênê kết luận:" Chỉ có con người được dựa vào ngực Chúa và được Chúa trao cho Mẹ Maria mới có thể hiểu" mọi bí nhiệm của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Gioan Tông đồ để mạc khải mầu nhiệm Ngôi Lời cho chúng con. Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con thấu hiểu những chân lý cao siêu thánh nhân đã truyền lại( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tông đồ ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ngày 26 - 12,Thánh Stephano, Tử Đạo tiên khởi


Thánh STÊPHANÔ, Tử Đạo Tiên Khởi
Thật đáng tiếc khi chúng ta không biết được nhiều hơn về thánh Stephanô. Như một người trong số người Do thái lưu lạc nói tiếng Hy Lạp, được giáo dục theo văn minh La-Hy và như vị tiền hô của thánh Phaolô, Ngài là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Giáo hội thời sơ khai. Có chút hiển nhiên là Ngài đã được giáo dục tại Alexandria. Có lẽ Ngài thuộc vào số những người "Hy Lạp" tìm Chúa vào những ngày cuối cùng của Người trên trần gian (Ga 12,20). Nếu đúng như vậy thì quả Ngài đã chứng minh nơi con người mình những lời Chúa Giêsu đã nói rằng: "hạt lúa mì không thể sinh hoa trái nếu không rơi xuống đất và chết đi" (Ga 12,24-25).
Ngài xuất hiện lần đầu trong lịch sử như một trong bảy vị Phó tế các tông đồ đã tấn phong (Cv 6) để trợ giúp các Ngài trong việc quản trị, nhưng Ngài dường như đã dấn mình vào việc rao giảng và hộ giáo hướng tới những hội đường nói tiếng Hy Lạp. Chính ở nơi một những hội đường này mà nhóm người "tự do" đã tố cáo Ngài truóc hội đồng công tọa như một người lạc đạo. Họ bắt giam và thử thách thánh Stephanô.
Diễn từ Stephanô nói để biện minh cho mình được thánh Luca kể lại khá dài dòng và xem ra có hơi buồn đối với độc giả tân tiến. Đó là gì, nếu không phải là một đoạn lược tóm lịch sử Cựu ước ? Tại sao nó lại đưa những người học thức tới cơn giận dữ không kiềm chế nổi ?
Bởi vì sự vặn ngược trong đó cũng như sự giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên không đặt vào câu chuyện. Ngài đưa ra hai điểm: trước hết, Thiên Chúa không chỉ tìm được trong đền thờ hay ở Giêrusalem hoặc ở Palestina, nhưng ở bất cứ nơi nào. Thiên Chúa ở với Abraham tại Chaldes, với Giuse ở Ai cập, với Môsê trên núi Sinai, với dân Israel trong sa mạc,với David cả trước khi xây cất đền thờ. Điểm thứ hai là các nhà lãnh đạo chính thức của Do thái thường hay khước từ sứ giả của Chúa. Các tổ phụ bán Giuse đi làm nô lệ, miêu duệ của họ bắt Môsê phải lưu lạc, trong hoang địa, Aaron dẫn họ xa khỏi lề luật mà thờ ngẫu tượng. Liên tiếp, các thủ lãnh của dân Do thái đã loại bỏ, ném đá và bắt bớ những ngôn sứ của Chúa. Bấy giờ tới tuyệt đỉnh, họ đã sát hại Đấng thiên sai, người công chính, Con người. Nhưng Chúa Giêsu bây giờ đang ngự bên hữu Thiên Chúa trong vinh quang.
Hội đồng công tọa điên tiết. Họ xô Stephanô ra một chỗ ở ngoài thành và ném đá. trước khi chết, Ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ". Lời cầu đã được Chúa và cả Saulê nghe thấy. Saulê có mặt trong vụ này. Ông biết mình đang chứng kiến một tội phản. Tự mình, ông không ném đá nhưng giữ áo cho nhóm người hành sự. Sau này, ông cố trấn an lương tâm bằng việc bắt bớ dữ dội các Kitô hữ khác. Nhưng khốn cho ông khi đạp mũi nhọn. Sau đó không lâu, ông đi Damas, con đường dẫn ông tới cuộc tử đạo như Stephanô. Thánh Augustinô nói: "Nếu Stephanô không cầu nguyện, Giáo hội khó có thể có được một Phaolô".

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

Ngày 28-12, các Thánh Anh Hài


Hêrôđê "Ðại Ðế", là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.
 
Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18, kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê "thật bối rối" khi các nhà chiêm tinh đến từ Đông phương, hỏi về "Vị vua mới sinh của người Do Thái," mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết, trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời. Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị vua ấy, để ông cũng "đến thần phục." Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó, Thánh Gia trốn sang Ai Cập.
 
Hêrôđê vô cùng tức giận, và "Ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống, ở Bêlem và vùng phụ cận". Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát, và sự tuyệt vọng của các cha mẹ, đã khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: "Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình..." (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama, là nơi người Do Thái bị tập trung lại, sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.
 
Lời Bàn
Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất - đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.
 
Lời Trích
"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống, ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết" (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).