tag:blogger.com,1999:blog-60364190720022784332024-02-20T18:29:34.033-08:00THEO DẤU CHÂN NGƯỜICòhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.comBlogger195125tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-22245870423063091572016-12-25T06:23:00.001-08:002016-12-25T06:25:17.166-08:00Lễ Thánh Gia<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2uvk0Vbs9VrGEFx0eShoAlhEI5KxdvIIPJTIl2Sb6s28hJ2rXqu1iy53MnqXJyhSgRcBFthPx10yu9tYeEAs5uMCcQuNoMax-djCn18nxAz00e2czl_XDOa-qZ4doRmj-odOYTSiNgMk/s1600/images.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="113" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2uvk0Vbs9VrGEFx0eShoAlhEI5KxdvIIPJTIl2Sb6s28hJ2rXqu1iy53MnqXJyhSgRcBFthPx10yu9tYeEAs5uMCcQuNoMax-djCn18nxAz00e2czl_XDOa-qZ4doRmj-odOYTSiNgMk/s200/images.jpg" width="200" /></a></div>
<h1 style="background-color: white; font-family: Arial; text-align: center;">
<span style="font-weight: 400;"><span style="font-size: small;">CHÚA GIÊSU, ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE</span></span></h1>
<div align="center" class="MsoNormal" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: center;">
<b><i><span style="color: #3333ff;">(Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng Sinh)</span></i></b></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Trong Tuần Bát Nhật, lịch phụng vụ có ghi một lễ mừng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong xã hội ngày nay : đó là Lễ Thánh Gia Thất<u> </u>: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse (tên gọi như trong Sách<i> Lễ Rôma, ấn bản mẫu II, 1992, tr. 159-161)</i>. Hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ này xét về khía cạnh phụng vụ : lễ Thánh Gia thất có ý nghĩa nào, nói kiểu khác, lễ này được hiểu như thế nào trong bối cảnh Mùa Giáng Sinh và áp dụng vào trong bối cảnh xã hội ngày này ?</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
<i><span style="color: red;">I. LỄ THÁNH GIA THẤT TRONG BỐI CẢNH MÙA GIÁNG SINH</span></i></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
<span style="color: #3333ff;">1. Lễ Thánh gia thất trong việc canh tân Năm phụng vụ và Lịch phụng vụ</span></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Như chúng ta biết, trong Mùa Giáng sinh, ngoài lễ trọng Giáng sinh ra, chúng ta còn có những lễ mừng khác, như Lễ Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa, cử hành vào ngày bát tuần Lễ Giáng Sinh, cũng là ngày đầu năm mới dương lịch, mồng một tháng giêng. Tiếp theo sau đó là ngày lễ Hiển Linh, tức là lễ Ba Vua; Sau cùng là lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, như là kết thúc Mùa Giáng Sinh. Tất cả những lễ này đều đã có trong phụng vụ Giáo hội bên Đông cũng như bên Tây, từ lâu đời, và có nền tảng là các sự kiện trong lịch sử thánh. Trong khi đó Lễ Thánh Gia thất không có tính cách lâu đời như các lễ kia; ngoài ra lễ Thánh Gia thất có nguồn gốc từ một phong trào tu đức mới đây cổ võ việc thánh hóa gia đình, thịnh hành tại một số nơi, nhất là tại Canađa, sau đó phong trào nàyđược phổ biến trong toàn thể Giáo hội.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Rồi lễ Thánh Gia thất và lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là hai lễ được sắp xếp lại từ khi cải tổ Năm phụng vụ và lịch phụng vụ vào năm 1969ï, do Công đồng Vaticanô II khởi xướng : như lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, trước đây mừng vào ngày 11 tháng 10 hằng năm. Ngày nay thì mừng vào ngày đầu năm mới, mồng một tháng giêng.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Lễ Thánh Gia thất trước kia mừng vào Chúa nhật sau Lễ Hiển Linh. Nhưng ngày nay Chúa Nhật sau lễ Hiển Linh được dành để cử hành biến cố Chúa Giêsu Kitô chịu phép rửa. Vì thế Lịch phụng vụ ban hành năm 1969, đã xếp vào lễ Thánh Gia thất được cử hành vào Chúa Nhật trong tuần bát nhật lễ Giáng sinh, hoặc nếu không có Chúa Nhật, thì mừng vào ngày 30 tháng 12 mỗi năm.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Ở đây tôi phải mở một dấu ngoặc về một nguyên tắc căn bản để xác định các lễ được cử hành trong phụng vụ. Nguyên tắc căn bản này có nghĩa là phụng vụ luôn và hầu như chỉ cử hành các biến cố trong lịch sử cứu rỗi. Một số rất ít lễ được thiết lập để cử hành một tín điều. Về điểm này, chúng ta có thí dụ cụ thể nhất, đó là Lễ Chúa Ba Ngôi, lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, lễ ngoại lịch về lòng nhân từ của Thiên Chúa, mới được đưa vào trong Sách Lễ Rôma. Lý do làm nền tảng cho nguyên tắc này : là vì phụng vụ tưởng niệm lại lịch sử cứu rỗi, để tung hô và ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử thánh. Cho nên đây là điều hợp lý. Vậy có rất ít lễ cử hành theo một tư tưởng... như chúng ta vừa nói ra trên đây. Vì thế biến cố Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, sống tại Nagiarét, là một sự kiện trong lịch sử thánh, tuy nhiên Năm phụng vụ đã cử hành riêng từng Vị trong các lễ khác nhau rồi.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
<span style="color: #3333ff;">2. Lịch sử việc thành hình Lễ Thánh gia thất</span></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Xét về việc thành hình lễ Thánh Gia thất, chúng ta thấy đây cũng là một biến chuyển khác thường. Phải nói là lễ Thánh Gia thất mới có đây và xuất hiện gần với chúng ta, tức là vào năm 1921. Vào năm 1893, người ta thấy có việc cử hành lần đầu tiên một lễ kính Thánh gia thất, do lời xin với Tòa Thánh từ các giáo phận hoặc các Dòng tu có lòng tôn sùng Thánh gia thất. Và lễ này được xác định cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Hiển Linh. Chúng ta nhớ là vào thời trước việc cải tổ niên lịch phụng vụ do Công đồng Vaticanô II, thì sau lễ Hiển Linh còn có mấy tuần, rồi mới tới Mùa Chay.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Lễ này đi kèm với một lòng sùng một Thánh gia thất, vào thế kỷ thứ 19, bắt đầu trước tiên từ bên Canađa, như chúng ta nói trên đây. Dần dần lòng sùng mộ Thánh Gia lan rộng ra khắp hoàn cầu. Phong trào này được Đức Giáo hoàng Lêô thứ XIII khuyến khích. Vào thời kỳ này, người ta nhận thấy các gia đình bị tục hóa, và như vậy gia sản thiêng liêng, các giá trị của gia đình bị tiêu tán. Có nguy cơ gia đình bị băng hoại hoàn toàn. Chính vì thế tín hữu tìm tới gia đình gương mẫu tại Nagiarét để giúp các gia đình công giáo sống đạo và sống ơn bí tích hôn phối.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Lễ Thánh gia thất trước đây chỉ cho phép một số nơi cử hành, sau đó mới lan ra trong toàn thể Giáo hội, tuy nhiên cũng chưa có được chỗ đứng vững chắc trong Năm phụng vụ. Vì vào năm 1911, trong Sách Lễ Rôma, do Đức Giáo hoàng Piô X cho tu sửa và công bố, cũng không có lễ Thánh gia thất. Sau đó vào năm 1920, lễ Thánh gia thất mới lại được đưa vào trong Sách lễ Rôma, và chỉ định ngày Chúa nhật thứ I sau lễ Hiển Linh. Ngày 26 tháng 10 năm 1921, Thánh Bộ Nghi lễ đã ra một sắc lệnh truyền cử hành một số lễ trong toàn thể Giáo hội, trong số lễ này, có lễ Thánh Gia thất, được cử hành vào Chúa nhật Bát nhật sau lễ Hiển Linh (S. Congregatio Rituum,<i> die 26-10-1921, AAS, 13 (1921, tr. 543-544).</i></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Năm 1969, khi cải tổ Lịch phụng vụ cho toàn thể Giáo hội, thì lễ này được dịch sang Chúa nhật trong Tuần Bát nhật Lễ trọng Giáng sinh, hoặc nếu không có ngày Chúa Nhật, thì cử hành vào ngày 30 tháng 12, như chúng ta thấy ngày nay.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
<span style="color: red;">II. NỘI DUNG THẦN HỌC PHỤNG VỤ CỦA LỄ THÁNH GIA THẤT</span></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Nói về nội dung thần học của Lễ Thánh Gia thất, chúng ta có thể nhắc lại tư tưởng Thánh Bộ Nghi lễ, khi ban hành việc mở rộng Lễ Thánh Gia thất cho toàn thể Giáo hội, vào năm 1921. Sắc lệnh nói như sau : việc mừng lễ Thánh Gia thất với một lễ phụng vụ là một điều rất thích hợp và giúp cho việc phát triển lòng sùng mộ đối với Thánh gia. Ngoài ra nhờ việc cử hành này, mà chúng ta suy niệm và bắt chước các nhân đức của các thành phần thánh thiện trong gia đình Nagiarét. Như vậy việc mừng lễ Thánh gia thất có chủ đích thần học là để ca tụng tôn vinh Ba Đấng thánh trong nhà Nagiarét. Trong khi mừng lễ này, Giáo hội cũng muốn nêu gương Thánh Gia cho các gia đình công giáo chiêm ngưỡng bắt chước, như trong Lời nguyện đầu lễ được đọc lên như sau: ² Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao<i>Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời² (xc. Lời nguyện</i> hiệp lễ cũng một ý tưởng trên đây) . Đức Thánh Cha Phaolô đã quảng diễn việc noi gương Thánh Gia tại Nagiarét như sau: ² Thứ đến<i> là bài học về đời sống gia đình. Ước chi Nagiarét dạy cho chúng ta biết ý nghĩa của gia đình, của sự hiệp thông trong tình yêu, của vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, cũng như tính cách linh thánh và bất khả xâm phạm của gia đình. Ước chi Nagiarét chỉ cho chúng ta biết rằng việc huấn luyện tại gia đình êm dịu biết dường nào, và không có gì có thể thay thế được. Ước chi Nagiarét dạy cho chúng ta biết vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội² (Sách</i> Các giờ kinh phụng vụ, tập I, Lễ Thánh Gia Thất, Giờ Kinh sách, Lễ Thánh gia thất).</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Nều nhìn vào sự kiện Lễ Thánh Gia thất được cử hành vào Chúa Nhật giữa Lễ Chúa Giêsu giáng sinh và Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, điều này cũng cho ta nhiều ý nghĩa. Trước tiên, lễ Thánh Gia thất mặc khải và minh chứng mầu nhiệm nhập thể cách cụ thể : vì Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, có một gia đình như bao người khác, sống trong một gia đình như chúng ta. Việc Ngài sống trong một gia đình, cũng là một biểu hiệu, Ngài muốn đem nhân loại vào trong sự hiệp thông trọn vẹn của gia đình Chúa Ba Ngôi. Rồi trong dịp Lễ Giáng sinh và Đầu Năm khi người ta thường trở về gia đình, lớn hay nhỏ, để mừng lễ Giánhg Sinh và Tết Dương Lịch, thì gương mẫu của Gia đình Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, trở nên mầu gương sống động cho mọi phần tử trong gia đình từ cha mẹ đến con cái trong cuộc sống đức tin và hiếu thảo. Các bài sách thánh và các kinh nguyện gợi ý rõ ràng về điểm sau cùng này.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Theo Sách Mục lục các Bài đọc trong thánh lễ, ấn bản mẫu thứ hai, ban hành vào năm 1981 (Ordo lectionum Missae, editio typica 1981), chúng ta có cơ cấu và sự sắp xếp như sau:</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Trước tiên là Bài Sách Phúc âm cho ba năm A B và C : rút từ các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Sách tin mừng theo Thánh Mathêô và Luca : nói về việc Thánh Gia trốn sang Ai cập (Mt 2,13-15); việc dâng Chúa Giêsu trong đền thờ để cử hành lễ đặt tên cho con trẻ và thanh tẩy cho bà mẹ theo như luật dạy (Lc<i> 2,22-40); rồi biến cố Con trẻ Giêsu lạc mất trong đền thờ. Ba biến cố</i> này nằm trong khung cảnh tôn giáo Do thái và trong phạm vi gia đình thật rõ ràng; vai trò của thánh Giuse và Đức Mẹ được nhận ra trong khung cảnh một gia đình, như các gia đình khác; còn Chúa Giêsu được mô tả như một người con của gia đình, nhưng Ngài cũng cho thấy Ngài hướng về, và giúp chúng ta hướng về một gia đình cao trọng hơn, trong đó Thiên Chúa là Cha.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Tiếp theo là các bài Sách Cựu ước giúp quảng diễn thêm về sứ điệp trong bài Phúc âm. Tất cả được chọn cho từng năm một, để cho thấy cái nhìn của Cựu ước về lòng hiểu thảo với Cha Mẹ được Thiên Chúa chúc lành (Hc 3,3-, năm A); ca tụng lòng hiếu thảo (St 15,1<i>-6; 21,1-3, năm B); mô tả gia đình của Samuel, với cha mẹ đạo đức,</i> tuân giữ lề luật Chúa (1Sam 1,20-28).</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Sau cùng là ba bài thư của các Tông đồ, là những áp dụng cụ sứ điệp của Tin Mừng của Chúa Kitô kể vào trong gia đình : bài sách thánh cổ điển nhất, rút từ thư gửi giáo đoàn Coloxê, nói về bổn phận của từng phần tử trong gia đình : vợ chồng, cha mẹ, con cái (Cl<i> 3,12-21, năm A, hoặc cả ba năm). Trong năm B đọc thư gửi tín hữu</i> Do thái, trình bày gương đức tin của gia đình ông Abraham (Dt<i> 11,8.11-12.17-19, năm B); còn năm C, bài trích từ thư thứ I của Thánh</i> Gioan, nói về tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta và giới luật bác ái, và bây giờ luật này áp dụng vào đời sống gia đình (1Ga 3,1<i>-2.21-24). Vì các bài đọc Cựu Ước và Thư các Tông đồ được thêm</i> vào cho năm B và C, chưa được dịch sang tiếng Việt, nên chúng ta chưa xử dụng được và hiểu biết về sứ điệp về gia đình.</div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Riêng đối với mỗi người bài học gia đình Nagiarét được Đức Thánh Cha Phaolô VI quảng diễn như sau trong bài giảng của Ngài tại Nagiaret vào năm 1964, như sau : ² Nagiarét là trường học để ta khởi sự<i> tìm hiểu cuộc đời của Đức Giêsu; đó là trường học của Tin Mừng.</i></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
<i>Tại đây trước tiên chúng ta học quan sát, học lắng nghe, chiêm niệm và thấu hiểu ý nghĩa vừa rất sâu xa, vừa rất huyền diệu của Con Thiên Chúa xuất hiện cách đơn sơ, khiêm tốn và dễ thương. Có lẽ chúng ta còn phải học để ầm thầm noi theo.</i></div>
<div style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 16px; text-align: justify;">
Tại đây chúng ta học được phương pháp giúp ta hiểu Đức Kitô là ai. Tại đây chúng ta nhận ra cần phải quan sát khung cảnh nơi Nguời cư ngụ giữa chúng ta : địa điểm, thời gian, phong tục,ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo,và tất cả hững gì Đức Giêsu đã sử dụng để mặc khải chính mình cho thế gian. Tại đây, mọi sự đều lên tiếng, mọi sự đều có ý nghĩa. ....² (Sách Các giờ kinh phụng vụ, tập I, Lễ Thánh Gia Thất, Giờ Kinh sách, Lễ Thánh Gia thất, Chúa Giêsu Kitô, Đức Maria, Thánh Giuse).</div>
<h6 style="background-color: white; font-family: Arial; font-weight: normal;">
<span style="font-size: small;">Như vậy việc cử hành lễ Thánh gia thất, mang nhiều ý nghĩa : trong phạm vi thần học, lễ này làm nổi bật mầu nhiệm nhập thể; trong khía cạnh phụng vụ, lễ này hướng về Giáo hội như là gia đình tế tự và cầu nguyện tôn vinh Thiên Chúa; và sau cùng theo ý nghĩa tu đức, nhờ gương gia đình thánh tại Nagiarét, các gia đình công giáo biết sống trưởng thành trong đức tin, đức cậy, đức ái, giữa các phần tử trong gia đình và trong mọi cảnh huống, khi hạnh phúc may lành cũng như khi hoạn nạn khổ đau, như trong Lời nguyện hiệp lễ đọc như sau : ² Lạy Cha nhân từ, Cha đã nuôi dưỡng chúng con nơi bàn tiệc thánh thể, xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Gia Thất, để sau đời khổ ải, được cùng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh cả Giuse hưởng vinh phúc muôn đời² . Amen.</span></h6>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-69104158729324696412016-12-25T06:12:00.000-08:002016-12-25T06:12:32.304-08:00Ngày 27-12, Thánh Gioan Tông Đồ, Thánh Sử<div class="Section1" style="font-family: Tahoma; page: Section1;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidS2DrAaA39xhwT-IlaIwH5KSsFkFEGTIVcIPp5-lROybYnVzlbrx-ehSrF2HI9xRC0zcf5f7PBGHQKu7hTuq9Fhf6fYuSBpRto5Jh5Jpr34JAfKm2LCcO1xcgVm38LynFvDfYJgTwA6E/s1600/t_john.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidS2DrAaA39xhwT-IlaIwH5KSsFkFEGTIVcIPp5-lROybYnVzlbrx-ehSrF2HI9xRC0zcf5f7PBGHQKu7hTuq9Fhf6fYuSBpRto5Jh5Jpr34JAfKm2LCcO1xcgVm38LynFvDfYJgTwA6E/s320/t_john.jpg" width="247" /></a></div>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
Một trong những vị tông đồ đã nói về tình yêu nhiều nhất là Gioan, thánh sử. Vị tông đồ trẻ,� được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt vì đời sống trinh nguyên, thánh thiện đã để lại cuốn Phúc Âm� thứ tư thuật lại tất cả đời sống của Chúa Giêsu. Thánh nhân đã được Giáo Hội mở đầu ca nhập lễ bằng những lời này:" Thánh Gioan ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly. Hạnh phúc thay vị Tông Ðồ, đã được tỏ cho biết các mầu nhiệm trên trời, và đã phổ biến lời hằng sống trên khắp thế gian ( Hc 15, 5 ).<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
<br /></div>
<h1 style="break-after: avoid; font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
THÁNH GIOAN TÔNG ÐỒ</h1>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
Thánh Gioan quê ở Bethsaiđa, xứ Galilêa. Thánh Gioan như nhiều Tông đồ khác, trước khi được Chúa mời gọi, đã làm nhiều nghề khác nhau trong xã hội Do Thái lúc đó. Có vị làm nghề lao động chân tay, làm vườn, có vị làm nghề thu thuế và hầu hết các Tông đồ trước kia làm nghề chài lưới. Thánh Gioan đã cùng cha của mình là Giêbêđê và anh là Giacôbê làm nghề chài lưới. Tin Mừng có đoạn đã thuật lại việc hai ông Giacôbê và Gioan có lẽ đã xúi mẹ mình tới xin xỏ với Chúa Giêsu: một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Chúa Giêsu trong nước của Chúa ( Mt 20, 21 ). Gioan là một trong số mười hai Tông đồ được Chúa Giêsu yêu thương nhất vì rằng Gioan và Phêrô đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm cho con gái ông Zairô sống lại. Thánh Gioan, Giacôbê và Phêrô đã từng được hưởng giờ phút ngây ngất trên núi Tabôrê khi Chúa biến hình( Mt 16, 1-8; Mc 9,2-8; Lc 9, 28-36 ) và các Ngài cũng được thông chia, hiệp thông giây phút đau khổ nhất của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu ( Mt 26, 36- 42 ). Thánh Gioan cũng được hạnh phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly và dưới chân Thập Giá, thánh Gioan đã được hạnh phúc lớn lao, Chúa Giêsu trối Ðức Mẹ cho Người và ngược lại:" Ðây là Mẹ của con "( Ga 20, 27 ).Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. Thánh Gioan còn được hân hạnh thông báo cho thánh Phêrô biết Chúa đã phục sinh trong buổi sáng Chúa Giêsu sống lại ( Ga 20, 1-10 ).<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
<br /></div>
<h1 style="break-after: avoid; font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
THÁNH GIOAN CON NGƯỜI QUÁ ÐẶC BIỆT</h1>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
Suốt cuộc đời của thánh Gioan từ khi Chúa kêu gọi ông, cho tới khi Ông nhắm mắt lìa đời, lúc nào thánh Gioan cũng được ở gần bên Chúa và lúc nào Ông cũng được chứng kiến những việc Chúa làm. Vì được Chúa yêu như thánh Gioan tự giới thiệu:" người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến"( Ga 13, 23; 19, 26; 20, 2.). Thánh Gioan đã làm chứng rằng Ngài sống bên Chúa, cùng ăn, cùng phục vụ với Chúa(Ga 21, 13 ). Thánh Gioan là một trong vài người đã thấy ngôi mộ trống và là một nhân chứng cho biến cố phục sinh. Ðời sống của thánh Gioan quả thật đặc biệt, thánh Augustinô đã nói:" Từ trong lồng ngực Chúa, Gioan đã tìm thấy nguồn suối ban cho chúng ta thứ nước không còn khát và sự hiểu biết". Origênê kết luận:" Chỉ có con người được dựa vào ngực Chúa và được Chúa trao cho Mẹ Maria mới có thể hiểu" mọi bí nhiệm của Thiên Chúa.<o:p></o:p></div>
<div class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: justify;">
Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Gioan Tông đồ để mạc khải mầu nhiệm Ngôi Lời cho chúng con. Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con thấu hiểu những chân lý cao siêu thánh nhân đã truyền lại( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tông đồ ).<o:p></o:p></div>
<div align="right" class="MsoNormal" style="font-size: 12pt; margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: right;">
<i>Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT<o:p></o:p></i></div>
<div>
<i><br /></i></div>
</div>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-70804913730574685042016-12-25T06:09:00.003-08:002016-12-25T06:10:44.378-08:00Ngày 26 - 12,Thánh Stephano, Tử Đạo tiên khởi<table bgcolor="#FFFFF0" border="0" cellspacing="15" id="table1" style="font-family: Arial; width: 500px;"><tbody>
<tr><td colspan="2"><hr align="right" color="#FF4D20" width="80%" />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjF5O1Ilsdv4OYAxBw76R7bmTMmxebKuw1m6SY4WHG2SgMHimVjF3P1hCS0ZPQQXtWsB_XfG2vNd1y_EkqqnrJ9vNRSY1YQPRa5i80wBrmHRz6QuSV6ecUBPpyD-bUHekwEoqI38xOYg_4/s1600/Stephen.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjF5O1Ilsdv4OYAxBw76R7bmTMmxebKuw1m6SY4WHG2SgMHimVjF3P1hCS0ZPQQXtWsB_XfG2vNd1y_EkqqnrJ9vNRSY1YQPRa5i80wBrmHRz6QuSV6ecUBPpyD-bUHekwEoqI38xOYg_4/s200/Stephen.jpg" width="110" /></a></div>
<div align="right">
<span style="color: blue;"><b>Thánh STÊPHANÔ, Tử Đạo Tiên Khởi</b></span><span style="font-size: small;"></span></div>
</td></tr>
<tr><td align="justify" colspan="2"><div align="justify" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 12pt;">
<span style="font-size: small;">Thật đáng tiếc khi chúng ta không biết được nhiều hơn về thánh Stephanô. Như một người trong số người Do thái lưu lạc nói tiếng Hy Lạp, được giáo dục theo văn minh La-Hy và như vị tiền hô của thánh Phaolô, Ngài là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Giáo hội thời sơ khai. Có chút hiển nhiên là Ngài đã được giáo dục tại Alexandria. Có lẽ Ngài thuộc vào số những người "Hy Lạp" tìm Chúa vào những ngày cuối cùng của Người trên trần gian (Ga 12,20). Nếu đúng như vậy thì quả Ngài đã chứng minh nơi con người mình những lời Chúa Giêsu đã nói rằng: "hạt lúa mì không thể sinh hoa trái nếu không rơi xuống đất và chết đi" (Ga 12,24-25).</span></div>
<div align="justify" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 12pt;">
<span style="font-size: small;">Ngài xuất hiện lần đầu trong lịch sử như một trong bảy vị Phó tế các tông đồ đã tấn phong (Cv 6) để trợ giúp các Ngài trong việc quản trị, nhưng Ngài dường như đã dấn mình vào việc rao giảng và hộ giáo hướng tới những hội đường nói tiếng Hy Lạp. Chính ở nơi một những hội đường này mà nhóm người "tự do" đã tố cáo Ngài truóc hội đồng công tọa như một người lạc đạo. Họ bắt giam và thử thách thánh Stephanô.</span></div>
<div align="justify" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 12pt;">
<span style="font-size: small;">Diễn từ Stephanô nói để biện minh cho mình được thánh Luca kể lại khá dài dòng và xem ra có hơi buồn đối với độc giả tân tiến. Đó là gì, nếu không phải là một đoạn lược tóm lịch sử Cựu ước ? Tại sao nó lại đưa những người học thức tới cơn giận dữ không kiềm chế nổi ?</span></div>
<div align="justify" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 12pt;">
<span style="font-size: small;">Bởi vì sự vặn ngược trong đó cũng như sự giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên không đặt vào câu chuyện. Ngài đưa ra hai điểm: trước hết, Thiên Chúa không chỉ tìm được trong đền thờ hay ở Giêrusalem hoặc ở Palestina, nhưng ở bất cứ nơi nào. Thiên Chúa ở với Abraham tại Chaldes, với Giuse ở Ai cập, với Môsê trên núi Sinai, với dân Israel trong sa mạc,với David cả trước khi xây cất đền thờ. Điểm thứ hai là các nhà lãnh đạo chính thức của Do thái thường hay khước từ sứ giả của Chúa. Các tổ phụ bán Giuse đi làm nô lệ, miêu duệ của họ bắt Môsê phải lưu lạc, trong hoang địa, Aaron dẫn họ xa khỏi lề luật mà thờ ngẫu tượng. Liên tiếp, các thủ lãnh của dân Do thái đã loại bỏ, ném đá và bắt bớ những ngôn sứ của Chúa. Bấy giờ tới tuyệt đỉnh, họ đã sát hại Đấng thiên sai, người công chính, Con người. Nhưng Chúa Giêsu bây giờ đang ngự bên hữu Thiên Chúa trong vinh quang.</span></div>
<div align="justify" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 12pt;">
<span style="font-size: small;">Hội đồng công tọa điên tiết. Họ xô Stephanô ra một chỗ ở ngoài thành và ném đá. trước khi chết, Ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ". Lời cầu đã được Chúa và cả Saulê nghe thấy. Saulê có mặt trong vụ này. Ông biết mình đang chứng kiến một tội phản. Tự mình, ông không ném đá nhưng giữ áo cho nhóm người hành sự. Sau này, ông cố trấn an lương tâm bằng việc bắt bớ dữ dội các Kitô hữ khác. Nhưng khốn cho ông khi đạp mũi nhọn. Sau đó không lâu, ông đi Damas, con đường dẫn ông tới cuộc tử đạo như Stephanô. Thánh Augustinô nói: "Nếu Stephanô không cầu nguyện, Giáo hội khó có thể có được một Phaolô".</span></div>
</td></tr>
</tbody></table>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-60932666701264332922016-01-05T20:27:00.006-08:002016-12-25T06:20:02.636-08:00Ngày 28-12, các Thánh Anh Hài<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<br /></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;">Hêrôđê "Ðại Ðế", là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.<br /> </span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;">Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18, kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê "thật bối rối" khi các nhà chiêm tinh đến từ Đông phương, hỏi về "Vị vua mới sinh của người Do Thái," mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết, trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời. Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị vua ấy, để ông cũng "đến thần phục." Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó, Thánh Gia trốn sang Ai Cập.<br /> </span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;">Hêrôđê vô cùng tức giận, và "Ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống, ở Bêlem và vùng phụ cận". Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát, và sự tuyệt vọng của các cha mẹ, đã khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: "Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình..." (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama, là nơi người Do Thái bị tập trung lại, sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.<br /> </span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;"><strong>Lời Bàn</strong></span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;">Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất - đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.<br /> </span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;"><strong>Lời Trích</strong></span></b></div>
<div style="background-color: white; color: black; font-family: Tahoma,Calibri,"Trebuchet MS",Helvetica,Arial,Verdana,sans-serif; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; text-align: justify; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 1; word-spacing: 0px;">
<b><span style="font-size: small;">"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống, ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết" (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).</span></b></div>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-1759423867228813422014-11-09T20:40:00.003-08:002014-11-09T20:41:07.076-08:00 Ngày 10-11 THÁNH LÊÔ CẢ GIÁO HOÀNG, TIẾN SĨ HỘI THÁNH<div align="center" style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgz3PE-VcTwECJFdrOpeobIwGAbTni86qG10ktJBuzrqgpX27EA-nlu7Vzy8MGrXsrwVtaFxeWly0E6Qjb6nVFRXp3rNK77UUW0QgWj_kc6NctGhYLRek0dWGeWksh5nme9zu0Qd7UHbqg/s1600/Thanh+Leo+Ca.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgz3PE-VcTwECJFdrOpeobIwGAbTni86qG10ktJBuzrqgpX27EA-nlu7Vzy8MGrXsrwVtaFxeWly0E6Qjb6nVFRXp3rNK77UUW0QgWj_kc6NctGhYLRek0dWGeWksh5nme9zu0Qd7UHbqg/s1600/Thanh+Leo+Ca.jpg" height="200" width="172" /></a></div>
<span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">THÁNH LÊÔ CẢ</span><br />
<strong style="font-size: 12px; line-height: 20.4000015258789px; margin: 0px; padding: 0px;"><span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">GIÁO HOÀNG, TIẾN SĨ HỘI THÁNH</span></strong><br />
<span style="color: maroon; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="font-size: 12px; line-height: 20.4000015258789px; margin: 0px; padding: 0px;">(~400 - 461)</strong></span></div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">1.Đôi hàng lịch sử</span></div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Thánh Lêô Cả có lẽ sinh tại Etrurie nước Ý khoảng năm 400. Ngài là phó tế của giáo đoàn Rôma. Chúc vụ phó tế lúc đó là chức vụ rất quan trọng vì người giữ chức vụ đó giữ vai trò đại diện cho Ðức Thánh Cha trong các công việc tài chính...</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Tháng 8 năm 440, ngài được cử lên ngôi Giáo Hoàng lấy hiệu là Lêô I.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Công việc chính của ngài là lo tẩy trừ các tệ nạn đồi phong bại tục trong Giáo Hội. Ngài luôn để ý đến việc gìn giữ Giáo Hội khỏi những lầm lạc do các bè rối đem lại, nhất là lạc giáo Nestoriô và Eutyches có khuynh hướng muốn tách biệt nhân tính ra khỏi Thiên tính của Chúa Giêsu và gán cho Ngài hai ngôi vị. Ðể chấm dứt các hậu quả tai hại do các bè rối gây nên, ngài đã triệu tập công đồng năm 451 tại Chalcédoine với sự tham dự của hơn 630 Giám Mục. Nhờ đức khôn ngoan, tài ngoại giao và ảnh hưởng lớn lao của ngài đối với các hoàng đế, công đồng đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Ngài có tài hùng biện và ngoại giao đặc biệt, có thể thuyết phục được những người hung dữ. Ðiển hình là tháng 8 năm 452, Attila chúa rợ Hung (Huns) dẫn quân xâm chiếm Âu Châu, gieo rắc kinh hoàng cho mọi người. Attila kéo quân về Rôma, cả kinh thành run sợ. Nhưng nhờ có Chúa và nhờ tài đức, ngài đã khắc phục được vị tướng đó rút quân trở lại con đường cũ. Năm 455, lại có Gensérie nổi lên đốt phá, hãm hiếp và tàn sát dân lành, chính nhờ ngài mà loạn quân không còn gieo tai họa nữa.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Thêm vào đó, ngài còn lo chấn hưng tinh thần đạo đức của giáo dân đã sa sút. Các bài giảng của ngài tuy đơn sơ, nhưng luôn bao hàm nhiều tính chất thần học. Ngài cũng đã viết nhiều sách vở để bênh vực Giáo Hội, chống lại tà thuyết.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="color: red; margin: 0px; padding: 0px;">2. Bài học</span></div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Có lẽ bài học rõ ràng nhất về cuộc đời vị Giáo Hoàng đặc biệt này là <span style="color: maroon; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><em style="margin: 0px; padding: 0px;">uy quyền và lòng can đảm </em></strong></span>trong công việc bảo vệ và canh tân Hội Thánh cũng như khi phải đối diện với những thử thách trong cuộc sống của mọi người.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Một trong những việc đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Đức Lêô Cả Giáo Hoàng là hoàn cảnh lúc ngài mới nhận nhiệm vụ coi sóc và hướng dẫn Hội Thánh. Hồi đó Giáo Hội và đế quốc Rôma phải đương đầu với tình trạng khủng hoảng là nguy cơ dân man di xâm lăng Rôma và sự đe dọa phá hoại niềm tin của lạc giáo Nestoriô và Eutyches<em style="margin: 0px; padding: 0px;">. </em>Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường vị tân Giáo Hoàng đã can đảm đương đầu với những thế lực đen tối kia.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Công việc đầu tiên trong triều đại Giáo Hoàng của ngài là điều chỉnh lại những sai lầm về đức tin và phong hoá trong Giáo Hội, nhất là bảo vệ niềm tin tinh tuyền của Hội Thánh khỏi bị lầm lạc. Bởi lẽ lạc giáo Eutyches có khuynh hướng muốn tách biệt nhân tính khỏi thần tính Chúa Kitô và chủ trương Đức Kitô có hai ngôi vị. Ngài đã rút phép thông công những người cố chấp theo lạc giáo đồng truyền đốt hết các sách vở lạc giáo.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Để chấm dứt những sai lạc do các bè rối gây ra, đức Lêô Cả đã triệu tập một công đồng chung tại Chalcédoine với sự tham dự của hơn 630 Giám mục. Nhờ đức khôn ngoan, tài ngoại giao và ảnh hưởng lớn lao của ngài đối với các Hoàng đế, công đồng đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy ngài không đích thân đến chủ tọa, nhưng đã cử đặc sứ đến đại diện. Bức thư ngài viết gởi Phavianô được tất cả các Đức Giám mục hoan nghênh. Cả về từ ngừ và tư tưởng thần học trong bức thông điệp đều được dùng làm nền tảng cho những nghị quyết về tín lý của Công đồng.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Điểm tiếp theo là ngài để tâm chăm sóc đặc biệt đến hàng giáo phẩm, cấm các giáo sĩ không được tham gia các chức vụ phần đời. Chính ngài đã ban nhiều thông điệp khuyên hàng giáo sĩ hãy cố gắng sống đời sống thánh thiện gương mẫu xứng với chức vụ của mình. Ngài lưu ý các linh mục và các Giám mục phải thận trọng trong việc tuyển chọn những người có tư cách xứng đáng để lãnh nhận các chức vụ thánh vì nếu không sẽ gây thiệt hại cho Giáo Hội và quốc gia.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Cuối cùng một sự kiện lịch sử mà người ta không thể không nói tới. Tháng 8 năm 452 Áttila một lãnh chúa oai hùng của người Hung mà vó ngựa của ông đã dày xéo khắp Á Châu, nay lại muốn dày xéo cả Âu Châu. Áttila đem đoàn quân kỵ mã tiến về Rôma. Cả kinh thành run sợ khiếp vía. Nhưng chính lúc đó, Thiên Chúa, qua vị đại diện của Ngài là đức Lêô I đã làm một việc khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Trước đó, đức Lêô I đã hiệu triệu Rôma và toàn thế giới Công giáo cầu nguyện và hy sinh một tuần. Hàng vạn kỵ binh quân Hung do Áttila cầm đầu rầm rộ tiến về hướng Rôma và dừng lại bên bờ sông Minsiô để quan sát tình hình. Trong khi đó, Đức Giáo Hoàng Lêô I với trang phục đại trào dẫn đầu một đoàn rước đông đảo tiến về phía bờ sông. Theo sau ngài có một đoàn các Giám mục, Linh mục, tu sĩ mặc lễ phục hay tu phục vừa đi vừa hát thánh ca, thánh vịnh. Khi hai biển người giáp mặt đối diện với nhau ở hai bên bờ sông Minsiô thì người ta nhận thấy có một sự tương phản hết sức rõ rệt: Một bên là bừng bừng sát khí, bên kia là hiền hoà khả ái; một bên là hận thù ghen ghét, bên kia là tha thứ yêu thương. Tiếng ngựa hí xen lẫn tiếng lẻng kẻng của võ khí không lấn át tiếng hát lời Kinh.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Lãnh Chúa Áttila ngồi bất động trên lưng ngựa, ra chiều suy nghĩ. Tiếng hát huyền diệu và lời Kinh đã nâng lòng ông lên chăng? Hay một sức linh thiêng nào đó đã cuốn hút ông đưa ông trở về cái cốt lõi của con người là lòng nhân ái. Thế rồi ông giơ cao thanh kiếm ra lệnh rút quân trong thinh lặng. Đoàn con Chúa trở về trong tiếng hát mà không phải đổ một giọt máu nào. Tạ ơn Chúa vô cùng. </div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Sau cuộc chiến thắng vẻ vang không đổ một giọt máu, đức Lêô khải hoàn vào thành giữa tiếng hoan hô của muôn người.</div>
<div style="background-color: white; color: #1a1a1a; font-family: Tahoma, Arial, Helvetica, Verdana, sans-serif; font-size: 14px; font-weight: bold; line-height: 23.4600009918213px; margin-bottom: 1em; margin-top: 1em; padding: 0px; text-align: justify;">
Sau gần 21 năm cai trị Giáo Hội trên toà thánh Phêrô, công lao của đức Lêô đối với Giáo Hội thật đáng kể. Ngày 11 tháng tư năm 461 ngài êm ái từ trần trong tay Chúa để lại bao mến thương cho toàn thể Giáo Hội nói chung và dân tộc Italia nói riêng. Xác ngài được an táng tại đại giáo đường thánh Phêrô. Lịch sử đã gọi ngài là Lêô Cả vì quả thực ngài là một trong những vị Giáo Hoàng vĩ đại của lịch sử Hội Thánh.</div>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-2844673940286191392014-10-18T05:59:00.002-07:002014-10-18T06:00:23.002-07:00Thánh Giuse Lê Ðăng Thị (1825-1860)<br />
<div class="MsoNormal">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXOW3Yd4sGvRSadot2zEhww-HNfnUMg8uthU7FhgucSboRwwYKImShvNhNhvTn075UkztqgHcsfEowELc85tVGl0JQD_JeFV-LF4Ilk2pRwJtGeH_4TAkpGv_3PNJ31FDgof5aZs8c6_E/s1600/GIUSE+THI.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXOW3Yd4sGvRSadot2zEhww-HNfnUMg8uthU7FhgucSboRwwYKImShvNhNhvTn075UkztqgHcsfEowELc85tVGl0JQD_JeFV-LF4Ilk2pRwJtGeH_4TAkpGv_3PNJ31FDgof5aZs8c6_E/s1600/GIUSE+THI.jpg" height="200" width="133" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Giuse Lê Ðăng Thị (1825-1860) </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-tab-count: 1;"><span style="font-size: large;"> </span></span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giuse Lê Ðăng Thị,
Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày
24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng
Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II
suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Cùng bạn về trời</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê Đăng Thị thức dậy
rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một
gócnhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay
(24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh "Nhân Danh Cha và Con và
Thánh Thần". Thế là ông có một người bạn đồng hành với mình vào quê hương
vĩnh phúc trên Trời.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Giuse Lê Đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy,
tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội.
Lớn lên anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà
vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi
được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Bão tố và niềm tin.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Vua Tự Đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát
hiện ra lệnh của mình chưa được thi hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh
đạo, cũng có người theo đạo Công Giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một
chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. "những quan nào có đạo (theo tà
đạo), dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để
tìm thêm những viên chức triều đình theo tà đạo. Những ai không tố giác, hoặc
chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng…". Nhà vua còn bắt
tất cả các quan quân phải bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây.
"Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát
lưu".</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị
làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê
cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây
được áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt
ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui
vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Cuối tháng hai, ông phải ra tòa cùng với 31 quân nhân khác.
Trong số đó có ba người bỏ đạo. Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vị gìa
yếu, còn lại 10 người bị thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình
giam hậu.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Riêng ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến
cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế.
Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: "Anh nghĩ rằng chúng ta không
còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương
nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày".</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Xứng danh huynh trưởng</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Suốt thời gian trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất,
ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là
bằng mẫu gương trung thành, cam đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông
rất nặng và bị đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức,
nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các
bạn tù lo lắng lớn nhất của mình. ông nói : "Tôi không rõ Chúa có cho tôi
sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi !
Chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một
thày giảng cũng lén vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai
bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin
vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như
sau : "Lê Đăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không
thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu".</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Vạn phúc</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên
chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và
giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc!
Tôi sắp được tử đạo". Lý hình quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi
chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín
hữu Phủ </span><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Cam</span></st1:place><span style="font-size: large;"> tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ
mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế
- Huế.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước
ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng
Hiển thánh.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Nguồn từ tu viện Đa Minh</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Trường thi tử Đạo.</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Lê Ðăng Thị sinh năm Ất Dậu (1825)</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Tại Kẻ Văn Phú Hậu
miền Trung</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Gia đình binh nghiệp
ung dung</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Võ quan tài giỏi tin
cùng giáo dân</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Khi chiếu chỉ có phần
gay gắt</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Lê Ðăng Thị sắp đặt
phục viên</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ðơn xin bệnh hoạn đưa
lên</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cấp trên chấp nhận về
liền Nghệ An</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Thêm chiếu chỉ liên
can toàn quốc</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ai trốn chui bắt được
tố ra</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ðăng Thị có kẻ ghét
mà</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Lên quan tố giác
trước tòa quân nhân</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Thị bị bắt về phần
lẩn trốn</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Trong số này có bốn
bạn thân</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giải về Quảng Trị
Trung Phần</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ðể quan xét xử tội
nhân ra tòa</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ông Ðăng Thị nhận là
Chưởng vệ</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Rõ đầu đuôi sự thể
xin ra</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Kitô hữu đúng thật mà</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giải ông về Huế rồi
là tống giam</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cùng đồng bạn lệnh
ban xử giảo</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ngồi trong tù anh
thảo bức thư</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Nghĩ rằng còn gặp nữa
ư</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Thương em anh nhớ giã
từ các con</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ở trong ngục cấp còn
cao nhất</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ông Ðăng Thị, chân
thật sẻ chia</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Trung thành can đảm
nọ kia</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cấp cao gông nặng, mũ
hia dữ đòn</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Tuy tuổi trẻ không
còn sung sức</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Lắm cực hình đau tức
lâm nguy</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Tâm tình với bạn thầm
thì</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Chúa cho tôi sống để
đi pháp trường</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Sợ bệnh hoạn dở dương
chết sớm</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Chắc vì tôi mắc vướng
tội nhiều</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Nguyện cầu xin Chúa
thương yêu</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cho con ơn trọng là
điều ước mong</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Một Linh mục vào
trong giải tội</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Sau có thầy tìm lối
đến trao</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Máu Mình Thánh đã đem
vào</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ngày mai Chưởng vệ
giải giao pháp trường</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giờ phút cuối quan
thường khuyên giải</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Xuất giáo đi án cải
xin vua</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ông Thị quan chớ giỡn
đùa</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Tôi trung của Chúa là
Vua Nước Trời</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Lính dẫn giải ra nơi
để xử</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giuse Thị vẫn cứ
nguyện cầu</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Một Linh mục đến từ
lâu</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giải tội lần chót
phép mầu trao ban</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ông hô lớn Thiên Ðàng
vạn phúc</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Bọn lý hình tới lúc
xiết dây</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Chứng nhân tắt thở
rồi đây</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Phú Cam tổ chức tràn
đầy giáo dân</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Phúc tử đạo Canh Thân
(1860) sử sách</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Một võ quan tư cách tuyên xưng</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Pháp trường cầu
nguyện không ngừng</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Suy tôn Kỷ Dậu (1909)
vui mừng Nước Cha</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ngay giáo xứ mở ra an
táng</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Là chứng nhân xứng
đáng Giuse</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Hồng ân Thiên Chúa
lắng nghe</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Về sau hài cốt chở
che nhà dòng</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">(Hài cốt Giuse Lê
Ðăng Thị Chưởng vệ được đặt trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế)</span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><br />
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Lời bất hủ: Bản án của ông Cai đội như sau: "Lê Ðăng
Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ
được". Y bị kết an xử giảo cuối mùa thu. Khi nghe bản án xong ông kêu lớn
tiếng: "Vạn phúc, vạn phúc! Tôi sắp được Tử đạo".</span></div>
<br />Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-9790955528552811512014-09-13T21:11:00.001-07:002014-09-13T21:11:38.579-07:00Thánh Anrê Kim Têgon và thánh Phaolô Chong Hasang<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhlMSH1Dqb21BIrzOJPmduQukZRt5qPDo9L0wCg443y456vkawdhobxBsFPbRXcWw3EXySI7OZln19rv5njInB6uLRzYE42u2legZyl9QsIuq-W5BdF_Nwz_W0-5V_zLZxDN0jFc6eSVYs/s1600/kimtegon0.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhlMSH1Dqb21BIrzOJPmduQukZRt5qPDo9L0wCg443y456vkawdhobxBsFPbRXcWw3EXySI7OZln19rv5njInB6uLRzYE42u2legZyl9QsIuq-W5BdF_Nwz_W0-5V_zLZxDN0jFc6eSVYs/s1600/kimtegon0.jpg" height="200" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Thánh Anrê Kim Têgon</span><br />
<span style="font-size: large;"> và thánh Phaolô Chong Hasang</span><br />
<span style="font-size: large;"><br /></span>
<span style="font-size: large;">Thánh Anrê Kim Têgon là linh mục và thánh Phaolô Chong Hasang là một tín hữu Công giáo. Hai vị tử đạo này đại diện cho nhiều Kitô hữu đã hy sinh mạng sống vì đức tin tại Hàn quốc. Các ngài được đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh năm 1984 nhân chuyến viếng thăm đất nước này.</span><br />
<span style="font-size: large;"><br /></span>
<span style="font-size: large;">Kitô giáo được những giáo dân đem vào Hàn quốc hồi thế kỷ thứ 17. Các tín hữu đã âm thầm nuôi dưỡng và tăng triển đức tin của họ dựa trên lời Chúa. Các linh mục thừa sai trẩy tàu từ Pháp sang Hàn và giới thiệu cho dân Hàn hiểu biết về đời sống bí tích của Hội Thánh. Thỉnh thoảng, suốt dọc thế kỷ thứ 19, đức tin Kitô giáo bị chính phủ Hàn bách hại. Từ năm 1839 đến năm 1867, đã có tổng cộng 103 tín hữu Hàn bị giết hại. Cũng có mười thành viên của hiệp hội Thừa Sai Pari nước ngoài chịu tử vì đạo: gồm 3 giám mục và 7 linh mục. Điều này đã nâng tổng số các thánh tử đạo lên 113 vị.</span><br />
<span style="font-size: large;"><br /></span>
<span style="font-size: large;">Thánh Anrê Kim Têgon và thánh Phaolô Chong Hasang là đại diện cho các Kitô hữu Hàn đã can đảm hy sinh mạng sống mình vì tình yêu Chúa Kitô. Thánh Anrê Kim Têgon, linh mục đầu tiên của Hàn quốc, đã tử vì đạo ngày 16 tháng Chín năm 1846, chỉ một năm sau khi được thụ phong. Thân phụ của Anrê đã tử đạo năm 1821. Thánh Phaolô Chong Hasang là một giáo lý viên rất anh dũng. Thánh nhân chịu tử đạo hôm 22 tháng Chín năm 1846.</span><br />
<span style="font-size: large;"><br /></span>
<span style="font-size: large;">Giáo hội vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng tại Hàn quốc. Món quà đức tin được tiếp nhận và được tô bồi nhờ công lao của các thánh tử đạo, những người đã hy sinh làm đá lát đường.</span><br />
<span style="font-size: large;"><br /></span>
<span style="font-size: large;"> Mỗi vị tử đạo là một bài giảng âm thầm. Khi chúng ta suy ngắm cái chết của một vị tử đạo nào đó, chúng ta học được một sứ điệp. Chúng ta hãy nài xin các thánh tử đạo Hàn quốc giúp chúng ta cũng yêu mến Chúa Giêsu và Giáo hội cách tha thiết như vậy.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-16614921635956698782014-06-22T19:47:00.002-07:002014-06-22T19:47:44.444-07:00Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_qML2SqIre20t64w2KkCrhs2jaIY0Q07YTeiRHf4y3JrTz3UfFA-sKwZYYlTf6q0BPWmPE1bn2zXAO8SSc3F7YR68ZHJK0_3k3AAQ54ZiimlyZDqsC1raW62TpMXSY6FHF17lX216G1U/s1600/thanhtam.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_qML2SqIre20t64w2KkCrhs2jaIY0Q07YTeiRHf4y3JrTz3UfFA-sKwZYYlTf6q0BPWmPE1bn2zXAO8SSc3F7YR68ZHJK0_3k3AAQ54ZiimlyZDqsC1raW62TpMXSY6FHF17lX216G1U/s1600/thanhtam.jpg" /></a></div>
<span style="font-size: large;">1. Nếu như thế kỷ XIX đã được coi là thế kỷ của lòng sùng kính Thánh Mẫu Maria, thì thế kỷ này cũng còn được gọi là thế kỷ của Thánh Tâm Chúa Giêsu. <br /><br />Thực ra, lòng tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, một trái tim 'con người' của Ðấng là 'Con Thiên Chúa', mời gọi các tín hữu chiêm ngắm như dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Lòng tôn sùng này đã được Thánh Gioan Euđê (1680) cổ vũ từ giữa thế kỷ XVII, và nhất là qua các thị kiến mà Thánh nữ Margarita-Maria Alacoque (1690) nhận được tại Tu viện Thăm Viếng ở Paray-le-Monial vào năm 1673 và 1675; trong các thị kiến, M-M. Alacoque được Chúa Giêsu chỉ cho thấy Trái Tim Người, "một trái tim đã yêu thương con người đến thế, mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc bẽo vô ơn". Thánh nữ còn được uỷ thác việc cổ vũ xin thiết lập một ngày lễ kính Thánh Tâm. Nhưng phải đợi đến gần hai thế kỷ sau ngày ngài qua đời, vào năm 1856, Ðức Piô IX mới chính thức thiết lập ngày lễ này trong toàn Giáo Hội. Rồi sau đó, dưới thời các Ðức Giáo hoàng Lêô XIII, Piô XI và Piô XII, đã có các giáo huấn liên hệ đến việc tôn sùng Thánh Tâm qua Thông điệp "Annum Sacrum", công bố ngày 25.5.1899 chuẩn bị Năm Thánh 1900, với việc dâng loài người cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, thông điệp "Miserentissimus Redemptoris" ngày 18.5.1926, "Summi Pontificatus" ngày 20.9.1939 và "Haurietis Aquas" ngày 15.5.1956.<br /><br />2. Nền tảng Kinh Thánh cho việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, đó là đoạn Tin Mừng Ga 19,31-37, về việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu chết trên cây thập giá, "một người lính đã lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức có máu cùng nước chảy ra". Một đoạn Tin Mừng khác cũng không thể bỏ qua là Mt 11,25-30 về mạc khải rất quý báu: "Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng...". <br /><br />3. Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, có ngày lễ Thánh Tâm, và ngày này đã trở thành Ngày Thánh hoá các Linh mục. Chúng ta có thể gợi ra một vài hệ luận đạo đức: <br /><br />Trước hết, hệ luận liên hệ đến đời sống đạo đức của cá nhân mỗi người: vì biết rằng Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương từng con người cụ thể, yêu thương hết lòng và yêu thương cho đến cùng, cho đến cái chết để cứu độ... nên chúng ta được mời gọi đáp trả, sống giới luật yêu thương "mến Chúa yêu người", theo gương của Ðấng đã yêu thương chúng ta và cũng theo mức độ như Người đã yêu thương, để đi vào cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể yêu thương đón nhận mọi người anh chị em chung quanh. Chớ gì khi được Thánh Tâm Chúa nung đốt, chúng ta cũng biết mặc lấy tâm tình của Chúa, một đàng ý thức thân phận yếu đuối của mình để sám hối ăn năn, và đàng khác biết thật lòng sống yêu thương như Chúa muốn. <br /><br />Hệ luận thứ hai nhắc nhở chúng ta cầu nguyện nhiều cho hàng linh mục, xin Chúa ban cho các ngài là những mục tử chăm sóc các linh hồn biết để cho Tình Yêu của Chúa uốn nắn, làm cho các ngài nên "những mục tử như lòng Chúa mong muốn".</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-44479613004936310792014-06-22T19:40:00.004-07:002014-06-22T19:40:32.602-07:00Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:WordDocument>
<w:View>Normal</w:View>
<w:Zoom>0</w:Zoom>
<w:PunctuationKerning/>
<w:ValidateAgainstSchemas/>
<w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid>
<w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent>
<w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText>
<w:Compatibility>
<w:BreakWrappedTables/>
<w:SnapToGridInCell/>
<w:WrapTextWithPunct/>
<w:UseAsianBreakRules/>
<w:DontGrowAutofit/>
</w:Compatibility>
<w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel>
</w:WordDocument>
</xml><![endif]--><br />
<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156">
</w:LatentStyles>
</xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]>
<style>
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt;
mso-para-margin:0in;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman";
mso-ansi-language:#0400;
mso-fareast-language:#0400;
mso-bidi-language:#0400;}
</style>
<![endif]-->
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNJyRgJDUUIQjBOoRyHDx7JasNlX-PKrF_ktI5RBJ5AkZ080G0pIAAXJ2GNBXJla4fLVG5w46RmivQ68ahFJz8ARyz0VBSNqF1HfVTn8AJEM2WF23zLtdeEMGFvIPYlJDCZLWXd_NJFmo/s1600/MeVoNhiem1.JPG" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNJyRgJDUUIQjBOoRyHDx7JasNlX-PKrF_ktI5RBJ5AkZ080G0pIAAXJ2GNBXJla4fLVG5w46RmivQ68ahFJz8ARyz0VBSNqF1HfVTn8AJEM2WF23zLtdeEMGFvIPYlJDCZLWXd_NJFmo/s1600/MeVoNhiem1.JPG" height="320" width="210" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ
Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim
vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Pio IX
công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói
thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc
”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria, hoặc các kiểu nói tương tự.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Nhưng nhầt là sau khi
Đức Mẹ hiện ra tại Fatima bên Bồ Đào Nha năm 1917 với ba trẻ mục đồng Lucia,
Phanxicô và Giacinta, và viêc phát hành các bút tích của chị Lucia, kiểu nói
”trái tim vô nhiễm nguyên tội” Mẹ Maria chiếm ưu thế trong thói quen của Giáo
Hội và trong phụng vụ. Nó đạt tột đỉnh giữa các năm 1942-1952, vì ảnh hưởng của
các biến cố tại Fatima đã xác định việc thánh hiến thế giới cho Trái tim vô
nhiễm nguyên tội Đức Mẹ và nhiều cuộc thánh hiến từ phía các cơ cấu giáo hội,
và đôi khi cả từ các tổ chức dân sự. Phong trào tôn sùng Trái Tim vô nhiễm
nguyên tội Đức Mẹ đạt tột đỉnh vào năm 1944 với việc cử hành lễ kính trong toàn
Giáo Hội Latinh. Các năm đó cũng là thời điểm lòng sùng kính Đức Mẹ nở hoa, và
việc tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ Maria đạt cường độ mạnh mẽ chưa từng thấy.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Tuy nhiên, rất tiếc
các năm trước khi Công Đồng Chung Vaticăng II khai mạc, và nhất là thời gian
hậu Công Đồng, lòng tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria gặp khủng
hoảng, cũng giống như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong Thông điệp
”Haurietis aquas” ”Các con sẽ kín múc nước” về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu, công bố ngày 15 tháng 5 năm 1956, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã viết rằng:
”Thật đáng than phiền rằng trong qúa khứ cũng như trong ngày nay, việc phụng tự
rất cao qúy này đã không có được vinh dự và sự trân trọng nơi một số Kitô hữu,
và đôi khi cả nơi một số người nói rẳng họ được linh hoạt bởi sự nồng nhiệt
chân thành đối với các lợi ích của đạo công giáo và việc thánh hóa chính mình”.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Ngay trong năm 1956
Thông điệp đã duyệt xét các lý do qua đó, theo ý kiến của vài tác giả, việc tôn
sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã gặp khủng hoảng. Đối với họ việc tôn sùng Thánh
Tâm là điều không thời sự và không thích hợp, là ”ít đáp ứng, nếu không nói là
làm hại cho các nhu cầu tinh thần cấp thiết nhất của Giáo Hội và của nhân loại
trong giờ phút hiện tại này”; là ”siêu tưới gội, vô ích và nguy hại” đặc biệt
đối với những chiến sĩ của Nước Thiên Chúa, lo lắng thánh hiến điều tốt nhất
trong các năng lực tinh thần của họ để gia tăng các thực hành và các việc đạo
đức, mà họ coi là cần thiết hơn cho thời đại ngày nay”; là ”suy tàn và tình
cảm”, nghĩa là ”một hình thức tôn sùng thấm nhuần tình cảm hơn là các tư tưởng
cao qúy và các trìu mến, và vì thế phù hợp với phái nữ hơn là với các người có
học thức”; là có dấu vết ”yếu đuối thụ động”, bởi vì họ cho rằng ”việc tôn sùng
này qúa bị cột buộc vào các hành động hãm mình, đền tội và các nhân đức mang
dấu vết thụ động, vì thiếu các hoa trái rõ ràng bề ngoài, và do đó ít thích hợp
với việc củng cố tinh thần tu đức tân tiến, mà bổn phận hoạt động công khai
phải có”.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Đây là các thành kiến
đích thật được nuôi dưỡng bởi chủ thuyết duy tự nhiên và khuynh hướng tình cảm
gia tăng. Để giải thích chúng một vài tác giả đã đưa ra các lý do sau đây.
Chẳng hạn như sự không chính xác của nền thần học liên quan tới việc tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu; việc ”đền bù” bị hiểu sai và thực hành lại còn sai hơn
nữa; tinh thần tu đức suy đồi được khích lệ trong một vài hiệp hội đạo đức;
biểu tượng bị áp dụng lệch lạc và được giới thiệu như là một bức màn chắn giữa
Chúa Kitô và tín hữu; một vài sự không hài hòa giữa các hình thái việc tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu và các hình thức sâu xa hơn của lòng đạo đức trong thời
đại chúng ta; các hình thức được gợi hứng bởi giáo hội học, bởi giáo thuyết về
thân mình mầu nhiệm, kinh nghiệm về cuộc sống của Thiên Thúa Ba Ngôi. Thế rồi
còn có sự vỡ mộng và cụt hứng không thể biệm minh, nhưng thực sự đối với vài
”lời hứa” vén mở cho thấy chúng vô ích, khi nhằm bảo đảm cho các cá nhân và xã
hội chống lại các tai ương: thí dụ như ”Ta sẽ thống trị bên Tây Ban Nha với
nhiều tôn sùng hơn các nơi khác”; khuynh hướng tôn sùng ích kỷ và duy lợi ích
xem ra xúi dục sự tôn sùng này, trong khi nó bị hiểu sai; nghệ thuật các ảnh
tượng chưa gặp được các hình thái diễn tả giá trị, vì nó đã không thành công trong
việc cống hiến nhiều hơn là vài kiểu mẫu gợi hứng mòn mỏi hay một sở thích gây
chán nản. Và những nhận xét đại loại kéo dài vô tận, trong các nguyệt san đạo
đức, trong các sách báo tôn giáo, các bài giảng vô vị và tuyệt đối, trái nghịch
với các khuynh hướng tân tiến ngày càng đòi hỏi sự đơn sơ và chân thật.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Ở đây không phải là
chỗ để bênh vực lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ, cũng đã chịu cuộc khủng hoảng
như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, tuy trong các tỷ lệ ít hơn. Các phương
thức giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng này trước hết thuộc trật tự tổng quát, và
cũng là những phương thức cho phép thoát khỏi cuộc khủng hoảng gọi là ”cuộc
khủng hoảng thời hậu công đồng”. Tuy nhiên, không thể coi Công Đồng Chung
Vaticăng II là nguyên do của cuộc khủng hoảng này. Nó đã chỉ là dịp, vì các văn
bản giáo huấn tuyệt hảo của Công Đồng đã chỉ được đọc và áp dụng bởi một vài
lãnh vực trong Giáo Hội. Nói cách khác, chính sự kiện đại đa số Kitô hữu đã
không đọc, không hiểu biết, thấm nhuần, áp dụng và sống các giáo huấn của Công
Đồng nên mới có các lệch lạc gây ra cuộc khủng hoảng đó.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Bởi vì, nếu thực sự
Công Đồng Chung Vaticăng II đã hướng lòng đạo đức của tín hữu tới việc thờ
phượng có tính cách phụng vụ, thì Công Đồng đã không hề lơ là trong việc nhắn
nhủ họ về các cung cách sống đạo bình dân chân thực. Bằng chứng là số 67 Hiến
chế về Giáo Hội viết rõ ràng như sau: ”Giáo Hội khuyến khích hết mọi con cái
hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy
coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn Mẹ và đã được Huấn
Quyền Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết
định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô,
Đức Nữ Trinh và các Thánh.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Công Đồng cũng hết
lòng khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét
đến phẩm giá phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng
phóng đại sai lầm, cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi qúa đáng... nhưng hãy làm sáng
tỏ đúng mức những vai trò và đặc ân của Đức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân
này luôn luôn quy hướng về Chúa Kitô là nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh
thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm
cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo
Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình
cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự đễ tin phù phiếm, nhưng phát
sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao
cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi
gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Như thế, chúng ta
phải công nhận rằng cần canh tân việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim
Đức Mẹ theo các tiêu chuẩn sau đây.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Thứ nhất, trở về với
các nguồn mạch đích thật của việc tôn sùng là Thánh Kinh, Truyền Thống, Huấn
Quyền và suy tư thần học được cập nhật. Dĩ nhiên, không thể bỏ qua vài ”nguồn
mạch” có tính cách thần bí và đặc sủng, khi chúng chân thực như các mạc khải
trong các lần Đức Mẹ hiện ra ở Helfta, Paray-le-Monial, Fatima vv... Tuy nhiên,
các nguồn mạch có tính cách đặc sủng này phải được minh giải và đặt để dưới các
nguồn mạch chính của lòng đạo đức Kitô.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Thứ hai, canh tân các
thực hành ”cổ điển” sùng kính Trái Tim Mẹ Maria và các cơ cấu đã mất tính thời
sự. Điều này đòi hỏi phải duyệt xét nền tảng phê bình lịch sử các ”lời hứa”,
bằng cách nhận ra nơi chúng ý nghĩa sâu xa, mà chúng có trong lãnh vực thần học
về ơn thánh, và tránh đừng để bị lôi kéo bởi cơ chế của các công thức.</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Thứ ba, cần có giải
thích thần học ý niệm nền tảng về việc đền tạ để thiết lập một mối dây sâu xa
giữa các việc sùng kính này và các mầu nhiệm cao cả nhập thể và cứu chuộc như
lời thánh Jean Eudes đã nói: ”Tôi muốn cho thấy một cách rõ ràng rằng việc tôn
sùng này không phải là không có nền tảng cũng như lý do, mà nó dựa trên các nền
tảng vững vàng và chắc chắn đến độ tất cả mọi quyền lực của trái đất và của hỏa
ngục cũng không có khả năng phá hủy... và điều này để khơi dậy một sự trân qúy
khác đối với việc tôn sùng Trái Tim rất thánh của Mẹ Thiên Chúa, như là việc
tôn sùng rất vững chắc và rất có nền tảng...” (x. S. De Fiores, Maria presenza
viva nel popolo di Dio, Roma 1980, 86-88).</span></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span> </span>Tóm lại, có thể nói
lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ
Maria luôn đi song song với nhau. Bởi vì trong gia đình nhân loại đã không hề
có hai trái tim nào và sẽ không bao giờ có hai trái tim nào khác đập cùng nhịp
yêu thương cứu chuộc như Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim vô nhiễm nguyên tội
Mẹ Maria. Phúc cho các Kitô hữu nào có lòng yêu mến và tôn sùng Hai Trái Tim
Cực Thánh ấy, vì Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria sẽ đặc biệt che chở và không bao
giờ để cho họ bị hư mất đời đời.</span></div>
Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-83382826148024504102013-12-08T05:37:00.001-08:002013-12-08T05:37:16.793-08:00Ngày 14-12 Thánh GIOAN THÁNH GIÁ Linh Mục Tiến Sĩ (1542 - 1591)<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPEVlpaDMJN84IFJ-ITMgNsIfRP26s9_WRvnlvDOaskc2m5bkXu59M6iqUqlmte3XsStBoA3WCmv0FNoov-673Qpe-O7gqlAGE4oM1H9Ukf4jDlj-j1H1UglCX3N5zMtImnOfavbZNNRY/s1600/Gioan+TG.jpeg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPEVlpaDMJN84IFJ-ITMgNsIfRP26s9_WRvnlvDOaskc2m5bkXu59M6iqUqlmte3XsStBoA3WCmv0FNoov-673Qpe-O7gqlAGE4oM1H9Ukf4jDlj-j1H1UglCX3N5zMtImnOfavbZNNRY/s200/Gioan+TG.jpeg" width="144" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 14-12<br /><br />Thánh GIOAN THÁNH GIÁ<br />Linh Mục Tiến Sĩ (1542 - 1591) <br /><br />Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24 tháng 6 năm 1542. Cha Ngài làm thợ dệt, bị gia đình giàu có làmnghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém hơn. Mẹ Ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đã học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội họa trong tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô. <br /><br />Trong mọi việc, Ngài có thói quen tự hỏi: - "Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm gì ?"<br /><br />Ngài không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của Ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu, Ngài đã dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học nơi các cha dòng Tên.<br /><br /> Năm1563, Gioan gia nhập dòng Carmêlô và năm sau được gửi học tại đại học Salamanca. Năm 1567 Ngài thụ phong linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila. Thánh nữ đã khuyên Ngài thực hiện việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với Ngài : - "Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải chịu khổ tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ".<br /><br />Gioan trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của dòng Carmêlô canh tân đi chân không, Ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, Ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh. <br /><br />Sau khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên úy của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái mình : - "Cha là vị thánh".<br /><br />Sự thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến Ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thày dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thày dòng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, Ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với Ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa Ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng Ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lý tưởng của Ngài. Đáp lại, Ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, Ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn "Thánh ca thiêng liêng" (cantiques spirituelles).<br /><br />Được 9 tháng thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, Ngài dừng lại trong một dòng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về "hạnh phúc của đau khổ" và bỗng Ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được chịu khổ vì Chúa đã làm cho Ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói : - "Không có cách gì để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác theo".<br /><br />Một ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh linh như muốn nâng Ngài lên. Khiêm tốn, Ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đã nâng Ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt Ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.<br /><br />Đức Thánh cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha, Ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính Ngài đã xây dựng một thủy lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, Ngài đã viết cuốn "ngọn lửa tình yêu sống động" (la vive flamme d'amour). Cuối cùng Ngài trở thành Tổng đại diện Andalousia.<br /><br />Sự trong trắng của thánh nhân đã tạo cho Ngài một quyền năng trên quỉ thần. Ngài đã giải thoát nhiều bị quỉ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá Ngài dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện, Ngài dập tắt một hỏa hoạn. Các thú vật quí mến Ngài. Để giữ mình trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người khác, Ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà Ngài gọi là "đêm tối của tâm hồn". Nhưng Ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn.<br /><br />Thường nhà dòng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà dòng. Các tu sĩ trở lại phòng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: - "Oi, vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đã sớm thương hại chúng ta".<br /><br />Lần kia, Ngài đã trả lời Chúa Giêsu khi Ngài hỏi về phần thưởng Ngài muốn rằng : - "Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa".<br /><br />Và Ngài đã xin ba ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.<br /><br /> Những tháng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã hủy hoại thân thể Ngài. Mệt nhọc vì du hành tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân, các vết thương mở rộng. Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia Ngài nói với người đối thoại: - "Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và đau nhức".<br /><br />Thánh nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta qúi mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với Ngài. Ngài đã chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho Ngài đau đớn thêm. Nhưng Ngài càng ôm chặt thánh giá vào lòng. Vị tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì lòng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin Ngài tha thứ.<br /><br /> Gioan báo trước mình sẽ chết đêm 14 tháng 12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh hồn, Ngài xin đọc sách Diễn tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi chuông reo giờ kinh sáng, Ngài cầm thánh giá nói : - "Lạy Chúa, con phó linh hồn trong tay Chúa". <br /><br />Ngài còn nhìn các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: - "Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu".<br /><br /> Gioan Thánh Giá để lại nhiều sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, đêm tối tâm hồn, Ngọn lửa tình yêu sống động, thánh ca thiêng liêng. Ngài được tuyên thánh năm 1726. Và Đức Piô XI đã đăt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-26440956463419307792013-12-08T05:36:00.001-08:002013-12-08T05:36:39.158-08:00Ngày 13-12 Thánh LUCIA Đồng Trinh Tử Đạo<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMgogrKA-N0q0v8vIgffE2o9T_JRlMLnsYrv6HX8D9UkUWSecpyNH4JNXHLlMlsGpSRgXl7LV7J9rLhUmM1bTEqfDsEulvhEyrOuRet_Lkz-sURRNQJ5l7IvEKcy4Z2HLn6KHqW2EupTs/s1600/lucy.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMgogrKA-N0q0v8vIgffE2o9T_JRlMLnsYrv6HX8D9UkUWSecpyNH4JNXHLlMlsGpSRgXl7LV7J9rLhUmM1bTEqfDsEulvhEyrOuRet_Lkz-sURRNQJ5l7IvEKcy4Z2HLn6KHqW2EupTs/s200/lucy.jpg" width="148" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 13-12<br /><br />Thánh LUCIA <br />Đồng Trinh Tử Đạo - (Thế kỷ IV)<br /><br />Theo lịch sử, chắc chắn là đã có một thánh nữ tử đạo tên là Lucia và mộ Ngài được tìm thấy trong hang toại đạo của các Kitô hữu Syracusa. Sau đây là câu chuyện về cuộc tử đạo của Ngài.<br /><br />Lucia là một thiếu nữ quí phái người Syracusa tại thủ đô miền Sicily. Mẹ Ngài gốc người Hy Lạp tên là Eutychia, có nghĩa là hạnh phúc. Sớm thành goá phụ, bà đã gắng chuẩn bị cho Lucia một điạ vị cao bằng cách dưỡng dục thánh nữ theo tinh thần Kitô giáo. Bà thường nói với con gái mình về lòng can đảm của các vị tử đạo đã tưới máu trên đế quốc hai thế kỷ qua. Như ở Sicily, tại hải cảng Catana, nửa thế kỷ trước thánh nữ Agatha thay vì chối bỏ đức tin, đã khước từ tình yêu của quan cầm quyền và trung thành với Chúa Kitô giữa các cực hình. <br /><br />Mẫu gương đáng phục này đã ám ảnh Lucia và khi Eutychia nhận lời cầu hôn cho con gái mình, Lucia khẩn cầu Chúa cất xa những cuộc cưới hỏi trần thế để dâng hồn xác phụng sự một mình Ngài thôi. Bỗng Eutychia ngã bệnh, Lucia lấy cớ này để đình hôn. Dầu vậy, Ngài thấy buồn vì mẹ khổ lâu, nên khuyên bà kêu cầu với thánh nữ Agatha, Ngài đưa mẹ đi Cathana để dưỡng bệnh. Khi đó, Ngài xem thường những sắc lệnh bách hại đạo của Điôclêtianô, khấn hiến mình hoàn tòan cho Thiên Chúa. Ngài đòi phân gia tài để phân phát cho người ghèo. Ngài nói : - "Dâng cho Chúa điều người ta không mang theo sau khi chết thì cũng không có gì là nhiều".<br /><br />Nhưng người theo đuổi Lucia thấy Ngài bán nữ trang và ruộng đất rồi phát cho người khổ cực, liền nổi giận và tố cáo với Paschse là người cầm quyền ở Syracusa. Lucia bị cầm tù. Trước tòa, Ngài đã trả lời cách đáng phục :<br /><br />"Giờ thì tôi chẳng còn gì nữa để dâng, tôi dâng chính mình như bánh thánh lên Thiên Chúa tôi cao. Ong run rẩy trước mặt Thiên Chúa, còn tôi, tôi kính sợ Thiên Chúa. Ông muốn làm đẹp lòng họ, còn tôi, tôi chỉ có một ước vọng là làm đẹp lòng Chúa Kitô thôi. Những người thiêu huỷ thân xác là những người bỏ niềm vui mau qua để đổi lấy những niềm vui đời đời. Thánh Phaolô tông đồ đã nói: Ai sống trong sạch và đạo đức là đền thờ Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần ở trong họ. Thân thể chỉ ra nhơ uế nếu linh hồn đồng tình với nó".<br /><br />Nhà cầm quyền truyền trao Lucia cho bọn đâm đãng êể làm nhục cho đến chết. Nhưng Ngài đã thành một sức mạnh khủng khiếp khiến bao sức lực của họ cũng không thể kéo Ngài đi được. Người ta kêu các phù thủy, đưa bò đến kéo nhưng không nghĩa lý gì đối với sự bất động của Trinh nữ. <br /><br />Người ta đốt lửa cũng không chạm tới Ngài. Sau cùng, người ta dùng giáo đâm cổ Ngài, nhưng Ngài còn tiên báo một cách lạ lùng : - "Tôi báo cho các ngươi biết rằng, Giáo hội Chúa được ơn bình an vì hôm nay Điôclêtiano bị đuổi khỏi đế quốc, Maximianô phải chết. Và như Catana vui sướng được chị tôi là Agatha bảo trợ, thành Syracusa được Chúa ban cho tôi, nếu các ngươi hết lòng thực hiện thánh ý Chúa".<br /><br /> Và dân Sicily thấy Paschase bị xiềng. César biết được rằng ông ta sẽ chiếm thành. Lucia trước khi chết đã được rước Mình Chúa do các linh mục đem đến.<br /><br /> Lucia là tên do từ ngữ Lux, nghĩa là ánh sáng. Như ánh sáng, gương mẫu đời Ngài dẫn các linh hồn lên trời. Tên Ngài khiến những ai đau mắt thường kêu cầu Ngài.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-71195011155235965952013-12-01T04:24:00.001-08:002013-12-01T04:24:40.457-08:00Ngày 07-12 Thánh AMBRÔSIÔ Gíam mục và tiến sĩ Hội Thánh <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFMW1i0jbu7mYxnRLT_0MToCqvVSMb5s2s4pDptWH2fBWXF_mdyeXs9mIc761SPd8pmvdZTGalYG3H_QRAT4t_1zJTGQEFRbIDo1kj7SC0yCIwdgN0eVHnFx7qgpkT4f9BI-55OWphTUg/s1600/Ambrose.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="148" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFMW1i0jbu7mYxnRLT_0MToCqvVSMb5s2s4pDptWH2fBWXF_mdyeXs9mIc761SPd8pmvdZTGalYG3H_QRAT4t_1zJTGQEFRbIDo1kj7SC0yCIwdgN0eVHnFx7qgpkT4f9BI-55OWphTUg/s200/Ambrose.jpg" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;"><br /><br />Thánh AMBRÔSIÔ<br />Gíam mục và tiến sĩ Hội Thánh <br /> (339 - 397)<br /><br />Thánh Ambrôsiô chào đời khoảng năm 339 tại Augusta Trevororum. Cha Ngài, ông Aurlio Ambrôsiô làm tổng trấn xứ Gauules và là nghị sĩ viện quí tộc. Nhưng ông chết sớm, mẹ Ngài trở về Roma với 3 người con: Ambrosiô. Marcellina và Satyra, cả 3 đều nên thánh.<br /><br />Ambrôsiô chưa lãnh phép rửa tội như thói quen thời ấy hay chần chừ, sợ mất ơn phép rửa tội, nhưng Ngài đã sống tuổi thơ ấu đạo đức. Lớn lên, Ngài tỏ ra thông minh đặc biệt, nổi tiếng về thơ văn, tài hùng biện và luật pháp. Thuộc dòng quí tộc, Ambrôsiô được đặt làm lãnh sự tỉnh Emilia và Liguria với thị trấn là Milan. Probus, vị tổng trấn theo Kitô giáo đã khuyên Ngài : - "Hãy đi và hành động như một giám mục hơn là quan án".<br /><br />Và người ta thán phục nhà quí tộc Kitô giáo vì sự khôn ngoan tỉnh thức và hiền hậu của Ngài. Giám mục Milan qua đời, một cộng đoàn tập hợp trong nhà thờ, người ta gây ồn ào xáo trộn tại đó vì chiahai phe: phe công giáo và phe theo Ariô. Ambrôsiô với tư cách là nhà cầm quyền đã đến dàn xếp. Ngài diễn thuyết kêu gọi hoà bình và khuyên dân chúng khôn ngoan chọn lựa, Ngài nói một cách đáng phục đến nỗi mọi tín hữu đều một tiếng kêu lớn : "Ambrôsiô làm giám mục".<br /><br />Hết còn phân ly, người ta ôm nhau khóc vì vui mừng. Hoàng đế Valentinô đã chuẩn nhận việc tuyển chọn bất ngờ này.<br /><br />Lúc ấy, Ambrôsiô còn là một dự tòng, nên cảm thấy mình bất xứng để làm cha linh hồn của cả đoàn dân Ngài. Ngài đã có lần trốn thoát đến nỗi còn muốn gây cớ xúc phạm để tỏ ra bất xứng, nhưng vẫn không đánh lừa nổi ai. Ngài còn viết thư cho các giám mục và hoàng để xin cáo lui, nhưng hoàng đế còn bày tỏ lòng thán phục : - "Không có một tinh thần nào ngay chính hơn, đây là một tay lái không thể uốn cong được".<br /><br />Ambrôsiô dành nhiều miễn cưỡng chấp nhận. Ngày 24 tháng 11 Ngài chịu phép Rửa tội. Ngày 07 tháng 12 năm 374 Ngài đã thụ phong linh mục và được thánh hiến giám mục. Ngài nói : - "Tôi bắt đầu dạy dỗ điều mà tôi không được học".<br /><br />Ambrôsiô không coi mình như người thuộc thế gian nữa, Ngài phân phát của cải cho người nghèo và dâng đất đai cho Giáo hội. Một phần đêm khuya dành để cầu nguyện và học hỏi. Ngài học các tác phẩm Kitô giáo, nhất bằng tiếng Hy Lạp và đào sâu thần học. Buổi rạng đông, dâng lễ rồi vào bàn làm việc. Ngài rao giảng để tái hồi giáo phận bị xáo trộn bởi phái Ariô. Ngài mở rộng cửa tiếp đón mọi người cần đến mình. Thánh Augustinô mà Ngài góp phần cải hóa đã gọi Ngài là thầy. Khi dạy dỗ, Ngài tỏ ra hiền hậu mà người ta gọi là "sự ngọt ngào của Ambrôsiô". <br /><br />Khi ngồi tòa, Ngài đã khóc như chính mình là tội nhân. Không có giờ ăn, Ngài như chay tịnh liên tiếp. Việc mục vụ nặng nề không ngăn cản Ngài tỏ ra là một thủ lãnh quyết bảo vệ đức tin công giáo. Ở Roma, tại cung điện nữ hoàng Justina theo Ariô, muốn chiếm nhà thờ Milan, giám mục chống lại và quyết bảo vệ thánh đường. Từ Chúa nhật lễ lá tới thứ năm tuần thánh, một đoàn người công hãm thánh đường. Ambrôsiô dùng việc giảng dạy và thánh ca để giữ tín hữu. Những người yêu mến Ngài làm thành một hàng rào bao quanh Ngài. Cuối cùng, chiến thắng về tay Ambrôsiô. Ngài vẫn luôn tỏ thái độ cương quyết như thế.<br /><br />Đế quốc rơi vào tay Theodosiô. Vị Tân hoàng đế rất quí chuộng và kính trọng giám mục. Đức giám mục cũng yêu mến ông bằng tình phụ tử, nhưng không vì thế mà thành ra yếu đuối bất công. Theodosiô trên đài vinh quang, để trừng phạt cuộc nổi loạn ở Thesalonica, đã ra lệnh tàn sát dã man. Thánh Ambrôsiô viết thư quở trách, bắt ông hối cải và cấm vào thánh đường. Ít lâu sau, Theodosiô chiến thắng trở về Milan với binh sĩ muốn vào thánh đường, đức giám mục đứng ở cưả ngăn ông lại và trách cứ ông. Hoàng đế lui về hoàng cung thống hối trong tám tháng. Ngày lễ Giáng sinh, ông khóc lóc xin tha tội. Ông cởi áo bào, phục dưới thềm nhà thờ và xếp hàng giữa đám tội nhân công khai. Không bao giờ ông còn chiếm chỗ danh dự nơi cung thánh nữa. Dân Milan rất thán phục vị vua đã đền tội cách quảng đại như vậy. <br /><br />Về sau, ông lại đi dẹp một cuộc nổi loạn mới. Thánh Ambrôsiô lại viết cho ông : - "Chiến thắng của vua sẽ bất toàn nếu vua không tha cho các kẻ nổi loạn".<br /><br />Vua đã tha. Trở về, Ambrôsiô ôm ông và khóc vì vui mừng. Vua đã qua đời trong tay vị giám mục. Với hoàng tử kế vị. Thánh Ambrôsiô nói : -"Ông không phải làm vua để phục vụ lợi ích gia đình mình thôi, nhưng là để cai quản mọi người".<br /><br />Và đối với vị vua băng hà, thánh Ambrôsiô nói : - "Tôi yêu mến con người này, vì đã ưa người quở trách mình hơn bọn nịnh thần. Hoàng đế đã không mắc cỡ khi hoàn tất việc thống hối công khai và không ngày nào mà không khóc lỗi lầm mình".<br /><br />Thánh Ambrôsiô còn sống thêm hai năm sau cái chết của vua Theodosiô. Nghe loan báo về cơn bệnh của Ngài, một viên chức của nhà vua tuyên bố : - "Con người này mà chết đi thì Italia sẽ bị đe dọa tàn phá đến nơi".<br /><br />Danh tiếng của Ngài vang dội đến nỗi rợ dân đã không dám chống lại Ngài. Có những thủ lãnh tin rằng: Ngài có thể ngưng mặt trời lại. Ngài đã hạnh phúc dùng thư tín mà cải hoá được nữ hoàng Marcômans. Trước khi qua đời ngày 4 tháng 4 năm 379 Ngài đã tổ chức các tòa giám mục miền bắc Italia. Theo một tường thuật, Ngài đã nằm, tay chéo lại như hình Thánh giá và người ta có thể thấy như môi Ngài vẫn cầu nguyện không ngừng.<br /><br />Gần mộ Ngài sẽ đặt phần mộ Marcellina, người em mà Ngài yêu qúi hơn cả. Con người và sự sống của thánh nữ chính nhờ sự dẫn dắt của Ngài đã hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Ambrôsiô đã để lại một công trình đáng kể.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-15293989257063638492013-12-01T04:23:00.000-08:002013-12-01T04:23:21.246-08:00Ngày 03-12 Thánh PHANXICÔ XAVIÊ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXbCQWf4YJE8M1xT4kSsdTC1OhHsUc33b9J3KEVuvM5tf75UK5JBk2jbZ7BmWrAmZHEuDvrtRXd-uOJ6j-PTtkYnvRk3o9v3oxCerJDhWv4YjUidgJv9YUA2Tz8WN_6UPOwlCo_bdgsu0/s1600/phanxico06.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXbCQWf4YJE8M1xT4kSsdTC1OhHsUc33b9J3KEVuvM5tf75UK5JBk2jbZ7BmWrAmZHEuDvrtRXd-uOJ6j-PTtkYnvRk3o9v3oxCerJDhWv4YjUidgJv9YUA2Tz8WN_6UPOwlCo_bdgsu0/s200/phanxico06.jpg" width="150" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 03-12<br /><br />Thánh PHANXICÔ XAVIÊ<br />Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản<br /> (1506 - 1552)<br /><br />Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyola.<br /><br /> Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng : - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"<br /><br /> Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".<br /><br />Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.<br /><br /> Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ. <br /><br />Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin. <br /><br />Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.<br /><br /> Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định. <br /><br />Ngài bộc lộ cho một người bạn : "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la : "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".<br /><br /> Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ. <br /><br /> Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại : "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".<br /><br /> Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.<br /><br /> Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói : "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".<br /><br /> Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ. <br /><br />Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc... <br /><br />Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ? <br /><br />Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại : - "Thì tôi bơi tới vậy".<br /><br />- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ? <br /><br />Ngài nói : - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.<br /><br />Rồi Ngài thêm : "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".<br /><br /> Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.<br /><br /> Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất. <br /><br />Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .<br /><br />Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại : - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.<br /><br />Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ : "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".<br /><br />Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh. <br /><br />Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn ngài lên bậc chân phước. Năm 1622, Đức Grêgôriô XV suy tôn lên bậc hiển thánh phong thánh cùng với thánh Inhaxiô và đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-46414652351482202452013-11-09T18:59:00.002-08:002013-11-09T18:59:59.716-08:00Ngày 11-11 Thánh MARTINÔ Thành Turinô <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEilfpLGJ6A6utBLAyHWqnHJ9qHiBr9E1IZBenkcOeTODCkeVNCmJ2U-M70lcjvp35xV5zrxm60IpqgoPmWBZtN_gqTvanPRR0ZXKHctLT8ZcR0xfvehOEjwUWl8QLIe2kP-et01DZvPF5U/s1600/martin-of-tours.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEilfpLGJ6A6utBLAyHWqnHJ9qHiBr9E1IZBenkcOeTODCkeVNCmJ2U-M70lcjvp35xV5zrxm60IpqgoPmWBZtN_gqTvanPRR0ZXKHctLT8ZcR0xfvehOEjwUWl8QLIe2kP-et01DZvPF5U/s200/martin-of-tours.jpg" width="148" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 11-11<br /><br /> Thánh MARTINÔ Thành Turinô <br /> Giám Mục (khoảng 315 - 397) <br /><br /> Chúng ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.<br /><br /> Martinô sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự tòng. <br /><br /> Lúc 15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: - Tôi chỉ có áo quần và khí giới.<br /><br /> Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin. <br /><br /> Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần. - Chính Martinô đã mặc cho Ta đây.<br /><br /> Sau đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễn cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: - Tôi là binh sĩ Chúa Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.<br /><br /> Bị coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ năm 339.<br /><br /> Danh tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút Martinô trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đã trở về sinh quán ở Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đã nói với người sắp dùng búa giết Ngài:<br /><br /> - Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?<br /><br /> Ngài đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.<br /><br /> Tương truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng : - Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một cuộc chiến cam go : - Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.<br /><br /> Thánh Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết. Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng đoàn của các nhà ẩn tu.<br /><br /> Ngài được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và lãnh Chúa chống lại "một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù".<br /><br /> Vị tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu tiên là mẹ đại học Oparis.<br /><br /> Công cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ thành hình. <br /><br /> Thiên Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise được thành lập.<br /><br /> Trong một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những người thờ ngẫu tượng nói: - Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa.<br /><br /> Martinô nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.<br /><br /> Ở Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ: sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.<br /><br /> Đây là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên "chiếc áo choàng thánh Martinô này" và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến cầu nguyện.<br /><br /> Tới 80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần, thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.<br /><br /> - "Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện".<br /><br /> Nằm trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: - "Các anh để tôi nhìn trời hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa".<br /><br /> Quỉ dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: - "Đồ súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao".<br /><br /> Đó là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-8950564225957552282013-11-09T18:43:00.001-08:002013-11-09T18:55:14.704-08:00Ngày 03-11 Thánh MARTINÔ PORRES<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6e5L1Hczkbr2M42udEyzgXKNr3ddywMGQdHcu4AEY-mqEEtziE2_7VLZF-ysbm_MZDLWlzz0qWan9bFePccw87wDBrmTO8t9n3Zi_wOWoUf02xLA68uvdGDzi94XXhNdAUwrXSTxmaZc/s1600/St+martino.jpeg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6e5L1Hczkbr2M42udEyzgXKNr3ddywMGQdHcu4AEY-mqEEtziE2_7VLZF-ysbm_MZDLWlzz0qWan9bFePccw87wDBrmTO8t9n3Zi_wOWoUf02xLA68uvdGDzi94XXhNdAUwrXSTxmaZc/s200/St+martino.jpeg" width="150" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 03-11<br /><br /> Thánh MARTINÔ PORRES<br /> Tu Sĩ (1579 - 1639) <br /><br /> 1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân. <br /><br /> Cuộc tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời. <br /><br /> Hồi còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ... mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.<br /><br /> Nhưng người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua được cho lão già.<br /><br /> Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại. <br /><br /> Vào tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là "thày chổi". Tại nhà dòng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết. <br /><br /> Trong dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: - Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.<br /><br /> Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài.<br /><br /> Martinô đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639. <br /><br /> Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loãng theo thời gian.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-1501000940659537462013-11-03T19:38:00.004-08:002015-11-12T19:34:00.020-08:00Ngày 9-11, cung hiến Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgap2B4ZkZeC1v9nP8E-Yil8lFaEVpIfGqd5xCWenNdvT4YYeJbK_oOWNO3A-Rj2xmuyHGJw5uQpzVs40nOBB6tmaa6GEdZ3C9Ou0MpDXBXLI6cyQwx8AyarfDju4kAcJJV6vYMTPXQ5Ac/s1600/laterano.jpeg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="128" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgap2B4ZkZeC1v9nP8E-Yil8lFaEVpIfGqd5xCWenNdvT4YYeJbK_oOWNO3A-Rj2xmuyHGJw5uQpzVs40nOBB6tmaa6GEdZ3C9Ou0MpDXBXLI6cyQwx8AyarfDju4kAcJJV6vYMTPXQ5Ac/s200/laterano.jpeg" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-69731812088111331442013-11-03T19:27:00.001-08:002013-11-03T19:27:43.949-08:00Ngày 04-11 Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Giám Mục (1538 - 1584)<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUtGCaUHr8PVNlFUKbxVWuIjgdp6ZDpW1aEjcbcMzC5LycyVdtSYDoNvyoPBqKOen_rC0CFQ2fUC10QtC9n0F74j5FPfevDwS_HjFi3hr0YUcqGBIpYnlALShcm5IXkRVsABNPs0ZEBZU/s1600/Th_nh_Cyrill_Gi_rusalem.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUtGCaUHr8PVNlFUKbxVWuIjgdp6ZDpW1aEjcbcMzC5LycyVdtSYDoNvyoPBqKOen_rC0CFQ2fUC10QtC9n0F74j5FPfevDwS_HjFi3hr0YUcqGBIpYnlALShcm5IXkRVsABNPs0ZEBZU/s200/Th_nh_Cyrill_Gi_rusalem.jpg" width="146" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 04-11<br /><br /> Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ <br /> Giám Mục (1538 - 1584)<br /><br /> Xuất thân từ dòng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh. <br /><br /> Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.<br /><br /> Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành giám mục "kiểu mới" của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận.<br /><br /> Ngài kiên trì viếng thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569. <br /><br /> Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.<br /><br /> Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định. <br /><br /> Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.<br /><br /> Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.<br /><br /> Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: "Kìa cơn mê của giám mục thánh Modène". Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.<br /><br /> Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được". Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-38265103445374867982013-09-23T22:06:00.001-07:002013-09-23T22:06:32.119-07:00Cha Pio năm dấu thánh
<br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjxPTIeCYF-fWKUOYIK0NEMxFQ9sA13ko6t5UnkJFtJkKRnMVni0m0OUioIOnz9x8hIRQr5Qyr0bpSyydbDfGJsNizKfffrCFem8ndACGt14FSgQvAb_Yv_QX4S512AfUZ6qwOVcYMsdek/s1600/pio.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjxPTIeCYF-fWKUOYIK0NEMxFQ9sA13ko6t5UnkJFtJkKRnMVni0m0OUioIOnz9x8hIRQr5Qyr0bpSyydbDfGJsNizKfffrCFem8ndACGt14FSgQvAb_Yv_QX4S512AfUZ6qwOVcYMsdek/s200/pio.jpg" width="155" /></a></div>
<div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Vài nét về Cuộc đời của Cha Pio (1887-1968). </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">(Radio Veritas Asia - 15/06/2002) - Trong bài thời sự</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">trước, chúng tôi đã ghi lại lời nhận định về
Cha Piô, cho rằng Cha là "Vị Thánh của mọi người". Và thực sự như
vậy. Cha là Vị Thánh được biết đến trên cả thế giới. Lễ Phong Chân phước
(2/05/1999) cũng như Lễ Phong Hiển Thánh (16/06/2002) là một đại lễ của người
tín hữu. Từng trăm ngàn người từ khắp năm Châu tuốn về Roma để tham dự hai biến
cố lịch sử này. Hằng năm có tới bẩy triệu người hành hương từ nhiều nước trên
thế giới đến cầu nguyện bên mộ Cha Pio trong Nhà Thờ Santa Maria delle Grazie ở
San Giovanni Rotondo, nơi Cha thi hành thừa tác vụ linh mục trong nhiều năm cho
tới ngày qua đời: 23 tháng 9 năm 1968. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Cha Pio là Vị Thánh lớn của thời đại này. Ðọc qua tiểu sử
của Cha, chúng ta thấy rằng: Cha đã được Chúa chọn để diễn lại cuộc Tử nạn của
Chúa, giữa một thế giới, như thế giới ngày nay, thi đua chạy theo vật chất và
thú vui, mỗi ngày mỗi xa Chúa. Cha là một môn đệ thực hiện đầy đủ lời Chúa dạy:
"Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thánh giá hằng ngày và theo
Ta". Cuộc đời đau khổ của Cha nhắc lại cho mỗi người trong chúng ta lời
Thánh Phaolô</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">nói: "Tôi rao giảng
Chúa Kitô và Chúa Kitô chịu đóng đinh". "Chúng tôi luôn mang nơi thân
mình cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được biểu
lộ nơi thân mình chúng tôi" (2 Cor 4, 10).</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">Cha Pio đã có thể nói như Thánh Tông đồ: "Tôi sống, nhưng không
phải tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Hôm nay, chúng tôi xin lược tóm cuộc đời của Cha Pio, một Vị
Thánh được in năm dấu thánh. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Những năm của tuổi thơ ấu -</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">Cha Pio sinh tại xã Pietrelcina, thuộc tỉnh Benevento (miền nam nước Ý)
ngày 25 tháng 5 năm 1887, trong gia đình nông thôn, rất sùng đạo. Thân phụ tên
là Grazio Forgione, mẹ là Giuseppina Di Nunzio. Trong ngày rửa tội,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cha Piô nhận tên thánh Francesco (Phanxicô). </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Hồi năm tuổi, Francesco đã mơ ước trở thành một Tu sĩ Dòng
Phanxicô-Cappucin với bộ râu,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">hằng ngày
từ nhà này qua nhà khác xin bố thí cho Tu viện. --(Ðây là luật lệ của các Dòng
hành khất thời Trung cổ)--. Một ngày kia, trước bàn thờ chính của nhà thờ
Pietrelcina, chính Francesco kể lại</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">là
mình thấy Chúa</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Giêsu lại gần và đặt tay
trên đầu, như dấu hiệu yêu thương, khích lệ. Francesco cũng thấy Thiên Thần bản
mệnh, luôn luôn đồng hành và Ðức Mẹ Maria hiện ra. Francesco thấy cả Quỉ dữ
dưới những hình ảnh</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">rất ghê tởm. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Các hiện tượng này không thể giải thích như những tưởng
tượng của tuổi trẻ, nhưng Francesco nghĩ rằng: những hiện tượng như vậy cũng
xẩy đến cho các bạn cùng tuổi mình. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Các người trong gia đình hết sức ngạc nhiên về những vụ đánh
tội của Francesco ban đêm. Francesco nghĩ rằng: để thánh hiến cuộc đời cho
Chúa, phải gần gũi hết sức có thể Chúa Giêsu. Một ngày kia, Bà mẹ Giuseppina
không thấy con, liền chạy đi tìm.</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">Francesco trả lời: "Con phải</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">đánh mình con như người Do thái xưa kia đã đánh đập Chúa Giêsu, đến độ
làm Máu của Người chảy ra". Nhiều lần Francesco ngủ trên sàn nhà lát đá
cẩm thạch, gối đầu trên một viên đá, bởi vì Francesco nghĩ rằng: phải tự gánh
tội trần gian theo gương Chúa Giêsu. Ðây là một ơn gọi riêng, ơn gọi đau khổ;
nếu không, Francesco nghĩ rằng: sẽ đi đến chổ hư mất đời đời. Francesco sớm ý
thức về ơn gọi chịu đau khổ này. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Sau lễ Ba Vua năm 1903, Francesco xin vào Nhà Tập Dòng
Cappucin. Tâm hồn Francesco bị xúc động: "Lạy Chúa con - Francesco viết -
ai sẽ có thể tả lại được cuộc tử đạo diễn ra trong tâm hồn con?</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Con cảm thấy tiếng nói của bổn phận phải vâng
lời Chúa, ôi lạy Chúa của con, Chúa nhân hậu của con! Nhưng thù địch của Chúa
và của con hành hạ con, muốn đập tan các xương con, nhạo cười con, đảo lộn mọi
sự trong con!" Trong tình trạng này, Francesco được nhìn thấy lần thứ nhất
"một người uy nghi với vẻ</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">xinh đẹp
khác thường",</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">người này mời gọi
Francesco "chiến đấu</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">như một binh
sĩ anh dũng" chống lại một quái vật, xem ra không thể thắng được, nhưng
Francesco, với sự giúp đỡ của nhân vật trên trời kia, đã thành công trong việc
xua đuổi quái vật này". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Ngày 6 tháng Giêng năm 1903, lúc 15 tuổi, Francesco được
nhận vào Tập viện tại Morcone, cách Molise ít cây số. Sau hai tuần tĩnh tâm,
Francesco được mặc áo Dòng và nhận tên dòng là "Pio da Pietrelcina",
để kính nhớ Ðức Thánh Pio V, Giáo Hoàng,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">và cũng kính nhớ Ðức Thánh Giáo Hoàng Pio X (1903-1914), lúc đó vừa được
bầu làm Giáo Hoàng. Thời gian của Tập viện là thời gian rất gay go theo Luật
Dòng Phanxicô. Pio đã trải qua thời kỳ thử thách này một cách gương mẫu. Việc
chiến đấu với Satan càng ngày càng gia tăng đến độ từ những phòng kế bên phòng
của Pio, các Tu sĩ khác thường nghe thấy những vụ đập đánh và những tiếng động.
Lúc các thầy chạy đến xem, thì thấy Pio nằm bất tỉnh trên sàn nhà. Sau những
năm tập viện,Thầy Piô tuyên khấn tạm, và ngày 27 tháng giêng năm 1907, thầy
khấn trọng thể. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Thầy Pio lúc đó chưa phải là linh mục,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">đã được ơn hiện diện tại hai nơi một lúc, như
chính Thầy kể lại với Cha Agostino: "Một ngày kia (ngày 18 tháng Giêng năm
1905) con thấy xẩy ra một sự kiện khác thường, trong lúc con đang ở trong nhà thờ
(nơi hát kinh) với Thầy Anastasio, con cũng thấy mình ở trong nhà của một gia
đình,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">nơi đây người cha đang hấp hối,
chính trong lúc đó một trẻ em cũng sắp ra đời. Ðức Mẹ Maria hiện ra nói với
con: "Mẹ phú thác đứa nhỏ này cho con... Con đừng sợ hãi: đứa nhỏ này một
ngày kia sẽ đến với con,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">nhưng trước đó,
con sẽ gặp đứa nhỏ này tại San Pietro". Ngay sau đó, con</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">lại thấy mình ở trong nhà thờ hát kinh".
Ðứa nhỏ này tên là Giovanna Rizzani. Sau này sẽ trở nên người con thiêng liêng
của Cha Pio và thuộc Dòng Ba Phanxicô. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Sức khỏe thầy Pio rất kém, không cho phép tiếp tục đời sống
trong Tu viện được. Thầy bị sốt liên miên, nhưng không giải thích được căn cớ
của chứng</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">bệnh này. Thầy trở về nhà để
chữa bệnh và ở lại từ năm 1909 đến 1916, sống ngoài Luật phép Dòng, trong tình
trạng không thể chấp nhận được theo Luật Dòng Phanxicô. Cha Agostino và Cha
Benedetto, mà Thầy vẫn liên lạc thường xuyên bằng thư tù, tin chắc rằng: Thầy
Pio, người được Thiên Chúa hướng dẫn, đang đi đến việc thực hiện đầy</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">đủ một ơn kêu gọi đặc biệt, cho dù cuộc đời
của Thầy đang trở nên "một cuộc tử đạo dữ dội", do bởi những cuộc
chiến đấu thường xuyên với ma quỉ, với hậu quả đáng lo sợ là Thầy có thể trở
thành nạn nhân của những cuộc ám ảnh và tình trạng ảo tưởng. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Việc sống ngoài Tu viện đặt ra</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">nhiều câu hỏi. Mỗi lần trở lại Tu viện, Thầy
Pio lại ngã bệnh, đến độ các Bề trên phải đưa Thầy trở về Pietrelcina, vì ở đây
xem ra Thầy lấy lại sức khỏe nhanh chóng. Nhưng tháng Hai năm 1917, Cha
Agostino mời Thầy đến thăm gia đình Cerase ở </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Foggia</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;"> (miền nam nước Ý), một gia đình rất sùng
kính các Tu sĩ Cappucins. Người con gái của gia đình tên là Raffaellina, lúc đó
mắc bệnh nặng và xin được gặp Thầy Pio trước khi chết. Thầy Pio trú tại Tu viện
Sant'Anna ở </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Foggia</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;">.
Tiếng đồn về một Tu sĩ có những nhân đức khác thường, có khả năng đánh động
những ai được may mắn nghe và nói với Tu sĩ này. Và từ đó người dân bắt đầu đi
lại tìm gặp Thày Pio. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Sức nóng tại </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Foggia</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;">
trở nên không chịu nổi. Vì thế Cha Paolino đưa Thầy Pio đến nghỉ trong Tu viện </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Santa Maria</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;"> delle grazie
trên một đồi cao, tại San Giovanni Rotondo. Tại đây Thầy thụ phong Linh mục,
làm mục vụ</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">cho tới lúc qua đời. Trên
phòng nhỏ dành cho ngài có hàng chữ "Thánh giá luôn luôn sẵn sàng và chờ
đợi con mọi nơi". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Ðến tuổi phải thi hành Nghĩa vụ quân dịch, Thầy Pio đến
trình diện tại Quân khu </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Benevento</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;">.
Thầy được công nhận là đủ điều kiện. Hết nghĩa vụ quân dịch, Thầy còn được nghỉ
hai năm tại gia đình. Nhờ những năm nghỉ nầy, Thầy được bình phục hoàn toàn,
khỏi hẳn chứng bệnh sưng màn phổi.Với sức khỏe khả quan hơn, Thầy Piô được lãnh
chức linh mục tại nhà thờ chính tòa Benevento, ngày 10 tháng 8 năm 1910, lúc 25
tuổi. Nhưng vì vấn đề sức khỏe, Bề Trên cho phép Cha Piô ở lại gia đình cho đến
năm 1916. Tháng 9 cùng năm 1916 nầy, Cha được sai đến Tu Viện Santa Maria delle
Grazie, -- Thánh Maria của Muôn Ơn Lành,-- ở San Giovanni Rotondo, và ở lại đây
cho đến lúc qua đời ngày 23 tháng 9 năm 1968. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Ngày 20 tháng 9 năm 1918, lúc thánh lễ ban sáng vừa kết
thúc, và mọi người ra về, Cha Pio còn ở lại cầu nguyện trong yên lặng và như
xuất thần. Một nhân vật bí nhiệm hiện ra, tay và chân đẫm máu. Cha Pio kể lại
cho Cha Agostino và Cha Benedetto như sau: "Từ ngày đó, con bị một vết
thương chí tử. Trong thâm tâm, con cảm thấy vết thương này luôn luôn mở</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">ra, làm con đau đớn nhiều". Vết thương
cạnh sườn bị đâm bởi một nhân vật trên trời bằng một lưỡi dao rất dài và rất
sắc ở đầu, trong lúc Cha Pio ngồi tòa giải tội ngày 6 tháng 8 năm 1918. Cha Agostino
và Cha Benedetto cho biết: Cha Pio đã sống "cuộc thử thách của tình yêu
đặc biệt: vết thương thiêng liêng của nhân vật trên trời là dấu hiệu của tình
yêu Thiên Chúa dành cho Cha". Cha Pio có cảm giác không chịu nổi một sự
đau đớn lớn lao như vậy được. Với thời gian qua đi, Cha Pio khám phá ra những
vết thương đẫm máu kia trở nên những vết thương của chính mình. Những vết
thương này mọi người đều thấy và làm cho Cha trở nên một "người bị đóng
đanh sống động". Cha muốn giấu, nhưng vết máu tiếp tục chảy ra, và anh em
trong Dòng đều thấy. Từ ngày đó, Cha phải mang găng tay bằng len mầu xám tối,
chỉ để thò ngón tay ra mà thôi, nhưng lúc đọc lời truyền phép,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">dâng Mình và Máu thánh Chúa lên, găng tay
được tháo ra. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Bề trên nhà và Bề</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">trên Tỉnh Dòng Cappucin muốn biết chắc chắn về các vết thương của Cha
Pio, để đề phòng khỏi nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng các bác sĩ và giáo sư
chuyên môn chỉ có thể giải thích được rằng: các vết thương kia không phải là
những vết thương gây nên do chứng lao phổi,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">cũng không phải những vết thương tự tạo nên. Giáo sư Luigi Romanelli của
Bệnh viện </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Barletta</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;">
coi là "chứng bệnh mầu nhiệm". Trong sự đau khổ không thể diễn tả
được, Cha Pio xác nhận rằng: "Tất cả những gì Chúa Giêsu đã chịu trong
cuộc Tử nạn của Người, nay tôi cũng chịu như vậy", theo sức có thể của một
tạo vật </span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">yếu hèn, không phải vì công
nghiệp của tôi, nhưng chỉ vì lòng nhân hậu của Chúa mà thôi". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Tiếng đồn về dấu thánh của Cha Pio mỗi ngày mỗi lan rộng các
nơi. Các tín hữu tuốn đến Tu viện </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Santa
Maria</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;"> delle grazie ở San Giovanni Rotondo. Ðời sống
của Cha Pio cũng thay đổi. Cha trả lời các thư nhận được. Cha ngồi Tòa giải tội
và cử hành thánh lễ. Cha Pio trở nên như "một mầu nhiệm cho nhiều
người". Các vết thương của Cha trở nên đề tài học hỏi, nghiên cứu, không
những trong lãnh vực Y khoa, nhưng cả nơi Giáo quyền. Những vụ xuất thần trong
lúc Truyền phép và dâng Mình Máu thánh Chúa, đám đông lũ luợt tuốn đến mỗi ngày
mỗi thêm nhiều tìm Cha Pio.... Tất cả đặt ra nhiều câu hỏi. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Ngày 18 tháng 4 năm 1920, Cha Pio được Cha Agostino Gemelli
viếng thăm (Cha Gemelli là một nhà trí thức, sáng lập Bệnh viện Bách khoa
Gemelli ở Roma, thuộc Ðại học Thánh Tâm Chúa ở Milano). Cha Pio không cho Cha
Gemelli khám xét các vết thương, vì không có phép chính thức. Cha Gemelli theo
tư tưởng này là các vết thương kia không thực. Một nhận xét không phù hợp với ý
nghĩ mà Ðức Benedicto</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">XV (1914-1922) vẫn
có về Cha Pio: "Ðây là một trong các người mà Thiên Chúa đã sai đến mỗi
khi cần đến trên thế gian này để làm cho con người trở lại". Ngày 2 tháng
6 năm 1922, những biện pháp đầu tiên được gủi đến Cha Pio. Cha không được cử
hành thánh lễ công khai, cũng không được thư từ với cha linh hướng của mình, và
với rất nhiều tín hữu từ khắp thế giới viết cho ngài. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Trước những biện pháp giới hạn, Cha Pio chỉ đáp lại bằng sự
yên lặng và vâng phục: "Tôi là người con của sự phục tùng". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Từ năm 1923 đến 1933 Cha Pio bị kiểm soát ngặt nghèo, Cha
không được giải tội và dạy các học sinh của trường thuộc Tu viện nữa. Cha bị
hoàn toàn cô lập. Khiếm tốn, Cha đáp lại: "Tôi là người con của sự phục
tùng". Ðây chính là thái độ của một tu sĩ Cappucin. Thái độ vâng phục này
sẽ tránh được những cuộc biểu tình chống đối có thể lan rộng nơi các tín hữu
vốn sùng kính Cha Pio. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Những tố cáo chống lại Cha dần dần thấy rõ là không có nền
tảng nào cả. Từ ngày 16 tháng 7 năm 1933 (sau 10 năm), Cha lại có thể cử hành
thánh lễ công khai và năm sau trở lại tòa giải tội. Sứ mệnh của Cha là tòa giải
tội, một ơn vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa. Cha còn được ơn thấy những
bí nhiệm trong tâm hồn của các người đến tòa giải tội. Nhiều lúc, sau khi giải
tội, người ta thấy cha khóc vì đau đớn. Và đây cũng là một ơn riêng Chúa dành
cho Cha, một cái nhìn siêu nhiên về tình trạng đáng thương của con người tội
lỗi. Dù sống đầy đủ thừa tác vụ linh mục, Cha Pio thỉnh thoảng bị cám dỗ về một
hồ nghi dữ dội làm Cha đau khổ nhiều: "Tôi</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;">
</span></span><span style="font-size: large;">đẹp lòng Chúa hay không?". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Các nhóm cầu nguyện. Trong những năm 1940, Cha Pio lãnh nhận
lời mời gọi của Ðức Pio XII (1939-1958) lập các nhóm cầu nguyện để nâng đỡ nhân
loại bị chiến tranh đe dọa. Ðây cũng là những năm bắt đầu đào móng xây cất Bênh
viện "Casa </span><st1:state w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">del</span></st1:place></st1:state><span style="font-size: large;">
Sollievo della Sofferenza", được khánh thành 5 tháng 5 năm 1956. Hoa kỳ và
các quốc gia đồng minh cung cấp phần lớn tài chính để xây cất Bệnh viện
này,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">sau đệ nhị thế chiến. Số tiền gửi
đến Cha Pio thật nhiều. ÐTC đã miễn Cha khỏi lời Khấn Khó nghèo. Và sau này Cha
Pio đã trao việc quản trị và thừa hưởng gia tài cho Tòa Thánh. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Lòng sùng kính mỗi ngày gia tăng của người dân đối với Cha
Pio làm tiêu tan những thù địch trước đây. Dân chúng luôn luôn coi Cha Pio là
người của Thiên Chúa. Sau chuyến viếng thăm của Ðức Giám mục Carlo Maccari, đại
diện Tòa Thánh, Cha Pio được hoàn toàn phục hồi trong năm 1965, thời Ðức Phaolô
VI, để thi hành</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Thừa tác vụ linh mục.
Ngoài ra, ÐTC còn cho phép Cha Pio, lúc đó đã già yếu,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">cử hành thánh lễ theo lễ nghi Latinh cũ, thay
vì lễ nghi mới, được cải tổ</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">sau Công
đồng Vatican II. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Các đau khổ không lúc nào từ bỏ Cha Pio. Vào cuối năm 1966,
Cha không thể đứng để cử hành thanh lễ, bắt buộc phải ngồi trong suốt thánh lễ.
Cha cũng không thể đi từ phòng ở đến Tòa giải tội đặt trong nhà thờ. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Ngày 20 tháng 9 năm 1968, kỷ niệm 50 năm lãnh nhận dấu
thánh.</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Trong dịp này,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Ðại hội quốc tế các nhóm cầu nguyện được tổ
chức; nhưng Cha Pio không thể tham dự, vì ngài sắp qua đời. Lúc 2g30 ngày 23
tháng 9 năm 1968,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Cha đã tắt thở. Lúc
các Bác sĩ và các Tu sĩ mặc áo</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">lễ cho
Cha, các vết thương biến mất hoàn toàn, không để lại dấu vết nào cả. </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Năm 1982 ÐTC Gioan Phaolô II cho phép khởi sự vụ làm án
phong Chân phước cho Cha Pio và,</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">năm
1997 (sau 15 năm), ngài công nhận nhân đức anh hùng của Cha. Ngày 2 tháng 5 năm
1999, ÐTC chủ tế Thánh lễ tôn phong Cha lên bậc Chân phước, sau khi công nhận
phép lạ do lời bầu cử của Cha. Người được khỏi bệnh lạ lùng và tức khắc là bà
Consiglia De Martino, lúc đó điều trị tại Bênh viện ở thành phố </span><st1:city w:st="on"><st1:place w:st="on"><span style="font-size: large;">Salerno</span></st1:place></st1:city><span style="font-size: large;"> (miền nam nước
Ý). Giảng trong thánh lễ, ÐTC nói: "Chứng tá của Cha Pio là một lời kêu
gọi mạnh mẽ về chiều kích siêu nhiên ... Vũ khí thực của Ngài là những cử chỉ
thánh hằng ngày của việc giải tội và thánh lễ, bởi vì thánh lễ là trung tâm mỗi
một ngày của Ngài". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="font-size: large;">Và Chúa nhật 16 tháng 6 năm 2002, tức sau ba năm, chính ÐTC
lại chủ tế Thánh lễ phong Hiển Thánh cho Chân phước Pio, và từ đây Thánh Pio
được tôn kính trong toàn Giáo hội. "Mirabilis Deus in Sanctis
suis",</span><span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-size: large;">Chúa thật kỳ diệu và làm
những việc kỳ diệu nơi các Thánh của Người". </span></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;">
</span><div class="MsoNormal">
<span style="mso-spacerun: yes;"><span style="font-size: large;"> </span></span></div>
<br />Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-83141348446294304552013-07-27T06:20:00.003-07:002013-07-27T06:20:58.214-07:00Ngày 31-07 Thánh IGNATIÔ LOYOLA <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-QeKQGpgMC1OplopvoiLxE4O-aA_oJHWoZVsUNn2WKeR3Tj3IWOl_pptviq-MuujIIgmn7l5k0QViGpIR7uAvJ6nxC361PQxq6W-lgbPgc4_qVPMqyQgZ_wBlgFd4BaC7gauJLce1wHI/s1600/ignatius_loyola.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi-QeKQGpgMC1OplopvoiLxE4O-aA_oJHWoZVsUNn2WKeR3Tj3IWOl_pptviq-MuujIIgmn7l5k0QViGpIR7uAvJ6nxC361PQxq6W-lgbPgc4_qVPMqyQgZ_wBlgFd4BaC7gauJLce1wHI/s200/ignatius_loyola.jpg" width="121" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 31-07<br /><br />Thánh IGNATIÔ LOYOLA <br />Linh Mục (1491 - 1556) <br /><br />Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.<br /><br />Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau. <br /><br />Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói: - Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?<br /><br />Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để "điều khiển đời sống mình" một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để làm mọi sự để "vinh danh Chúa" (Ad Majorem dei gloriam)<br /><br />Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.<br /><br />Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.<br /><br />Ignatiô trở về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục. <br /><br />Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu "dòng Chúa Giêsu" dưới quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ: - Đây là bàn tay Thiên Chúa.<br /><br />Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.<br /><br />Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.<br /><br />Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.<br /><br />Thánh Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-52263273800050701602013-07-27T06:18:00.004-07:002013-07-27T06:18:45.946-07:00Ngày 29-07 Thánh MARTHA<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgz8rESEgdjAfi1vhF6ss4gAd6QhuxrQYDuCEIMbFUiUiiUhy0aygZySvqCxb9UAKG736lwd-0rnxNeEA7JyL75JbZw4C6SFJObx2LVT6J4JbFNpnRlTcbNbDCwc6brps3C0gz21llhyUg/s1600/macta2.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgz8rESEgdjAfi1vhF6ss4gAd6QhuxrQYDuCEIMbFUiUiiUhy0aygZySvqCxb9UAKG736lwd-0rnxNeEA7JyL75JbZw4C6SFJObx2LVT6J4JbFNpnRlTcbNbDCwc6brps3C0gz21llhyUg/s200/macta2.jpg" width="151" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 29-07<br /><br />Thánh MARTHA<br /><br />Chúng ta biết chắc về thánh Martha qua 2 giai thoại trong Tin Mừng. Khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Laxarô (Ga 11,1-44). Martha, theo tiếng tramêô, có nghĩa là bà chủ. Bà hai anh em Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu. Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc. <br /><br />Martha đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói: - Thưa Thày, Thày không màng nghĩ tới sao, em tôi để cho tôi một mình phục dịch ? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi .<br /><br />Chúa Giêsu đáp lại : - Martha, Martha, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.<br /><br />Như thế Chúa Giêsu đã cho Martha biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Martha đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần. Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu: - Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.<br /><br />Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết. Đức tin của Martha vẫn không thay đổi.<br /><br />- Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.<br /><br />Và bà thêm : - Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.<br /><br />Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi : - Con có tin thế không ?<br /><br />Martha đã mau mắn tuyên xưng: - Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.<br /><br />Và bà đã không lầm. Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.<br /><br />Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao. Chắc chắn Martha có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức xác Người trước khi mai táng.<br /><br />Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Martha Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque. Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa, đuôi cắn xé. Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nói lại. Quái vật bị hạ sát và nó bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-81112279582142610792013-07-20T18:42:00.000-07:002013-07-20T18:42:01.123-07:00Ngày 26-07 Thánh GIOAKIM VÀ ANNA<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh3YBUFns_b2rjJJdLbp5PtZs34UL5LR0p6uPl3GidL4FFNE6GQqPxevlA__eV92GPrN_rXbinp8SPrRH5g_4-wOTlP9Clu6IuoJU1wxbHbwsu4AWrJSsx5xaHWErxA-Hm2pkN2rf8oDzo/s1600/gioakim.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="136" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh3YBUFns_b2rjJJdLbp5PtZs34UL5LR0p6uPl3GidL4FFNE6GQqPxevlA__eV92GPrN_rXbinp8SPrRH5g_4-wOTlP9Clu6IuoJU1wxbHbwsu4AWrJSsx5xaHWErxA-Hm2pkN2rf8oDzo/s200/gioakim.jpg" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 26-07<br /><br />Thánh GIOAKIM VÀ ANNA<br />Phụ Mẫu Của Đức Trinh Nữ Maria <br /><br />Chúng ta không biết chắc được điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ. Những điều liên quan tới các Ngài mà chúng ta biết được là do các ngụy thư, đầy tính chất hoang đường. Khi óc tò mò của dân chúng không được thỏa mãn với các chi tiết thánh kinh và thánh truyền cung ứng cho, thì óc tưởng tượng đã lấp đầy khoảng trống.<br /><br />Cuốn ngụy thư "Phúc âm thánh Giacôbê", một văn nguồn vào thế kỷ thứ II, có nhiều chỉ dẫn liên quan đến cha mẹ và cuộc đời thơ ấu của Đức Trinh nữ. Những chỉ dẫn này rất giống câu chuyện về tuổi trẻ của Samuel trong sách ISm 1-2. Các học giả cho rằng chúng chỉ cho là một sự bắt chước, chính danh xưng Anna cũng không có gì chắc chắn vì nó trùng với tên mẹ tiên tri Samuel. <br /><br />Dường như khuôn mặt Gioakim cũng dựa một phần vào người chồng của Suzana trong sách Daniel 13. Cần phải nhớ rằng thánh Luca khi dùng những chương sách ISm làm khung cho bản tường thuật về cuộc sinh hạ và tuổi trẻ của thánh Gioan Tẩy giả, Ngài đã cẩn thận dùng sự kiện lịch sử để bảo đảm sự sống đời này.<br /><br />Tuy nhiên nét đẹp của câu chuyện, như hầu hết các truyện thần thoại khác, đều có giá trị biểu trưng của nó, truyện kể rằng ông bà Gioakim và Anna son sẻ. Đây là một thử thách lớn lao đối với các Ngài. Nhưng một thiên thần đã báo cho biết họ sinh một con trẻ, họ sẽ đặt tên là Maria và cung hiến cho Thiên Chúa. Nếu các Ngài chọn đau khổ là vì mọi đóng góp vào công cuộc cứu rỗi đều bao hàm sự chia sẻ thánh giá với Chúa Kitô. <br /><br />Đàng khác, sự son sẻ của Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ Isaac, Giacob và Giuse về quan án Samson và tiên tri Samuel. Các Ngài đều sinh ra bởi các bà mẹ không có hy vọng sinh con. Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi Thiên Chúa mà thôi. <br /><br />Người Israel chân chính viết rằng mình không thể tự mãn được và phải tùy thuộc vào sáng kiến của Thiên Chúa. Huyền thoại đặt cuộc sinh hạ của Đức trinh Nữ Maria vào dòng tư tưởng này như cao điểm của chủ đề và sự bất lực của con người trước uy quyền của Thiên Chúa.<br /><br />Việc tôn sùng thánh Anna có từ thế kỷ thứ VI bên Đông phương vào đầu thế kỷ VIII bên Roma. Cuối thời Trung Cổ, lòng sùng kính lan rộng khắp Au Châu. Dường như năm 1382 do sự khẩn nài của nước Anh, lễ kính Ngài lần đầu tiên được mừng hàng năm. Nhưng chỉ mới từ hai thế kỷ gần đây lễ này mới được ghi vào lịch chung Roma.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-11657757114027491502013-07-20T18:40:00.000-07:002013-07-20T18:40:10.149-07:00Ngày 25-07 Thánh GIACÔBÊ TIỀN Tông Đồ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQxj47Y1FsQzxJqFKh8knqLfffZvQ3TSyaeUwc1nJGIAi5hjJ43WRkwR4lxMMiICY3lWx79A8EGEsexan6NwCQrBoDzrb7uc4YSe5O30bCt7JOG0MvvORQDvYohkHbcb_264Iz0UHPQ_Q/s1600/Giacobe.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQxj47Y1FsQzxJqFKh8knqLfffZvQ3TSyaeUwc1nJGIAi5hjJ43WRkwR4lxMMiICY3lWx79A8EGEsexan6NwCQrBoDzrb7uc4YSe5O30bCt7JOG0MvvORQDvYohkHbcb_264Iz0UHPQ_Q/s200/Giacobe.jpg" width="168" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 25-07<br /><br />Thánh GIACÔBÊ TIỀN<br />Tông Đồ<br /><br />Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi Ngài là thánh Giacôbê Tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm giám mục Gierusalem. Gọi là "tiền" vì Ngài được gọi trước hay vì Ngài cao lớn hơn, nhất là vì Ngài lớn tuổi hơn.<br /><br />Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Trong tường thuật này, chúng ta thấy gia đình ông Giêbêđê xem như cũng khá giả và có thuê những người làm công.<br /><br />Kể từ khi bỏ cha mẹ, chài lưới và những người làm công, anh em Giacôbê và Gioan luôn sát cánh bên Chúa. Họ chia sẻ với Người nếp sống "con người cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu" và trong những buổi tiệc vui như ở Cana (Ga 2,1). Trong cộng đoàn tông đồ, Giacôbê luôn giữ một chỗ đứng quan trọng sau Phêrô. Bởi vậy Ngài được vào số ba môn đệ trong các biến cố phục sinh cho con gái Giarô (Mc 5,37) biến hình (Mc 9,2) và hấp hối ở Gethsemani (Mc 14,33).<br /><br />Giacôbê hẳn phải hiểu rõ đặc ân của mình và ông đã đáp trả bằng một nhiệt tình cũng đặc biệt. Một lần qua Samaria, ông đã bất mãn vì dân làng không tiếp đón Chúa Giêsu một cách nồng hậu. Ông phát biểu : - Thưa Ngài, Ngài có muốn chúng tôi khiến lửa từ trời giáng xuống mà tiêu diệt chúng không ?<br /><br />Nhiệt tình của ông giống như Elia. Nhưng Chúa Giêsu lại sửa sai tính nóng nảy ấy của ông : - Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào (Lc 9,52-56).<br /><br />Và người đặt cho Giacôbê và Gioan biệt danh là Boanerghê, nghĩa là con cái của sấm sét (Mc 3,17).<br /><br />Dĩ nhiên là con người, khi theo Chúa Giêsu, các ông vẫn còn những yếu đuối, khi nghe loan báo về cuộc hoàn thành sứ mạng sắp tới, Giacôbê và em ông không ngần ngại thưa:<br /> - Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của thầy.<br /><br />Không hứa sẽ thỏa mãn ước vọng của họ, Chúa Giêsu đã chỉ hỏi : - Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không ?<br /><br />Một lần nữa, các ông bày tỏ nhiệt tình của mình : - Thưa được (Mt 20,20-23; Mc 10,35-40)<br /><br />Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng phục sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của Ngài. Ngài sẵn sàng chịu chết dưới lưỡi gươm theo lệnh truyền của Hêrôđê Agrippa (Cv 12,2), có lẽ vào năm 42. Thế là Giacôbê đã trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tìnhmến của mình vào thế kỷ II, Clêmentê thành Alexandria đã làm chứng rằng,chính kẻ tố cáo thánh nhân lại được Ngài cải hóa và lãnh phúc tử đạo cùng lúc với Ngài.<br /><br />Truyền thống cho rằng Giacôbê đã mang Tin Mừng đến Tây Ban Nha. Tuy nhiên điều này không được chứng thực rõ ràng. Lần đầu tiên truyền thống này được viết ra vào thế kỷ VII, dựa vào nguồn Hy lạp không đáng tin. Một thế kỷ sau, khi một ngôi sao chỉ cho thấy ngôi mộ của thánh Giacôbê, niềm tin của quần chúng bắt đầu lan rộng. <br /><br />Nơi hành hương ở Compostella (có lẽ bởi chữ Campustella : cánh đồng sao) là trung tâm rất nổi tiếng dầu chúng ta tin rằng thánh Giacôbê có đi Tây Ban Nha đi nữa thì cũng không thể nói được rằng nơi đây có di tích của thánh nhân.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-25098388799239130912013-07-20T18:39:00.000-07:002013-07-20T18:39:10.932-07:00Ngày 22-07 Thánh MARIA MADALENA<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh9_t8jIAgkBRAGJtVfxMb3-MERjvfqhwhajDkxXuOOMjV9aYF1eP3ElxQzGYvySoGtIwGYpNhv1fwcTiHQyGxF0z0AbD3EhSSHh5I1SN6SHuPDfS4daexbE9282L0EVcU-MhGs8hZKCF0/s1600/Madalein.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="150" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh9_t8jIAgkBRAGJtVfxMb3-MERjvfqhwhajDkxXuOOMjV9aYF1eP3ElxQzGYvySoGtIwGYpNhv1fwcTiHQyGxF0z0AbD3EhSSHh5I1SN6SHuPDfS4daexbE9282L0EVcU-MhGs8hZKCF0/s200/Madalein.jpg" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 22-07<br /><br />Thánh MARIA MADALENA<br /><br />Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.<br /><br />Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).<br /><br />Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đâng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).<br /><br />Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp "thầy". Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).<br /><br />Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.<br /><br />Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên "Maria" buổi sáng phục sinh.<br /><br />Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-64158545304456256612013-07-15T05:20:00.000-07:002013-07-15T05:20:11.473-07:00Ngày 15-07 Thánh BÔNAVENTURA Giám mục, tiến sĩ hội thánh<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhihKrAmzR4TFmVLQe8wBj_YNg-zZg3sHJojikCDnwulqRKloP3XY8dmjdAxfV2yiAfrdx5Br62KL23TcnQ69noc2i-e9cEiZ5s0xNKFejtR_ycMMmsQx1ujLd_I4cfI9-6p3cmCDPYXTg/s1600/saint-bonaventure.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="181" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhihKrAmzR4TFmVLQe8wBj_YNg-zZg3sHJojikCDnwulqRKloP3XY8dmjdAxfV2yiAfrdx5Br62KL23TcnQ69noc2i-e9cEiZ5s0xNKFejtR_ycMMmsQx1ujLd_I4cfI9-6p3cmCDPYXTg/s200/saint-bonaventure.jpg" width="200" /></a></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 15-07<br /><br />Thánh BÔNAVENTURA<br />Giám mục, tiến sĩ hội thánh.(1221 - 1274) <br /><br />Sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người mẹ kêu lên : "Obuona Ventura" (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.<br /><br />Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét : - Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.<br /><br />Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời: - Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.<br /><br />Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này. <br /><br />Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả. <br /><br />Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài : - Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?<br /><br />Bonaventura trả lời : - Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.<br /><br />Thầy dòng hỏi tiếp : - Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không ?<br /><br />Thánh nhân trả lời : - Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.<br /><br />Thày dòng vui vẻ la lớn : - Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.<br /><br />Ngài còn tiếp : - Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.<br /><br />Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn "chú giải luật dòng Phanxicô", "hạnh tích thánh Phanxicô" nhất là cuốn "hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa".<br /><br />Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng : Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.<br /><br />Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay. <br /><br />Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.<br /><br />Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là "Tiến sĩ sốt mến".</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-6036419072002278433.post-58151001957111275922013-06-22T06:27:00.002-07:002013-06-22T06:27:57.194-07:00Ngày 29-06 Thánh PHÊRÔ TÔNG ĐỒ và Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKVkfeuirnI6p9mI64w2Fs-1UdJj7bFAPi__KOosXcjXD9mKC9W5I7YDKzXTHDVaCvtxcCat3B6ucwDjG-fE7yfDa20gNx_Le6G2iWEmdAaa8-U1ThDkR-4ShjDiDlE9fZ1VyYQiJE0zY/s320/elgreco21_PeterPaul.jpg" width="270" /></div>
<span style="font-size: large;">Ngày 29-06<br /><br />Thánh PHÊRÔ TÔNG ĐỒ<br /><br />Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là "Đá" Simon và Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilea. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: "Đây là Con Thiên Chúa".<br /><br />Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo: - Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)<br /><br />Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.<br /><br />Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô: - Ra khơi mà thả lưới đánh cá.<br /><br />Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói: - "Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi".<br /><br />Chúa Giêsu trả lời: - "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người" .<br /><br />Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả : gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội : Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an: - "Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ".<br /><br />Phêrô liền kêu ngay : - "Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày".<br /><br />Người bảo : - "Hãy đến đây".<br /><br />Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu : - "Lạy Chúa xin cứu tôi". Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)<br /><br />Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không ? Phêrô trung tín đáp lời: - "Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời" (Ga 6,67-68)<br /><br />Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: - "Còn các anh, các anh nói tôi là ai ?"<br /><br />Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình : - "Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".<br /><br />Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn : - "Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt 16,13-19)<br /><br />Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội. <br /><br />Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia ; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ: - "Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17,1-8).<br /><br />Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa: - "Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày" (Mt 19,27)<br /><br />Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)<br /><br />Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình : - "Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày".<br /><br />Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng: - "Quả thật, ta bảo ngươi : gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần" (Ga 13,36-38)<br /><br />Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)<br /><br />Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết : - "Chúa đó".<br /><br />Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông: - Con có mến Thày không ?<br /><br />Phêrô trả lời : - Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa <br /><br />Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông : - "Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta".<br /><br />Và Người thêm : - "Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn" (Ga 21,15-18)<br /><br />Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.<br /><br />Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn : - "Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh : nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.<br /><br />Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời : - Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không ?<br /><br />Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.<br /><br />Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.<br /><br />Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.<br /><br />Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa : - Thày đi đâu dây ?<br /><br />- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.<br /><br />Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của Origênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.<br /><br />+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.<br /><br /><br /> Ngày 29-06<br /><br />Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ<br /><br />Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn.<br /><br />Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.<br /><br />Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á. <br /><br />Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình. <br /><br />Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.<br /><br />Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.<br /><br />Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.<br /><br />Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.<br /><br />Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.<br /><br />Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61 ) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontana.<br /><br />Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội ?<br /><br />Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói "giáo thuyết của Phaolô" thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói " Chúa Giêsu là đức Kitô" Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là "hình ảnh" hoàn hảo của Thiên Chúa. <br /><br />Từ lời gọi "Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA ?" Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể : "đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người" (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới "nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do"<br /><br />Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.</span>Còhttp://www.blogger.com/profile/16878785383046636683noreply@blogger.com0