1. Nếu như thế kỷ XIX đã được coi là thế kỷ của lòng sùng kính Thánh Mẫu Maria, thì thế kỷ này cũng còn được gọi là thế kỷ của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thực ra, lòng tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, một trái tim 'con người' của Ðấng là 'Con Thiên Chúa', mời gọi các tín hữu chiêm ngắm như dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Lòng tôn sùng này đã được Thánh Gioan Euđê (1680) cổ vũ từ giữa thế kỷ XVII, và nhất là qua các thị kiến mà Thánh nữ Margarita-Maria Alacoque (1690) nhận được tại Tu viện Thăm Viếng ở Paray-le-Monial vào năm 1673 và 1675; trong các thị kiến, M-M. Alacoque được Chúa Giêsu chỉ cho thấy Trái Tim Người, "một trái tim đã yêu thương con người đến thế, mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc bẽo vô ơn". Thánh nữ còn được uỷ thác việc cổ vũ xin thiết lập một ngày lễ kính Thánh Tâm. Nhưng phải đợi đến gần hai thế kỷ sau ngày ngài qua đời, vào năm 1856, Ðức Piô IX mới chính thức thiết lập ngày lễ này trong toàn Giáo Hội. Rồi sau đó, dưới thời các Ðức Giáo hoàng Lêô XIII, Piô XI và Piô XII, đã có các giáo huấn liên hệ đến việc tôn sùng Thánh Tâm qua Thông điệp "Annum Sacrum", công bố ngày 25.5.1899 chuẩn bị Năm Thánh 1900, với việc dâng loài người cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, thông điệp "Miserentissimus Redemptoris" ngày 18.5.1926, "Summi Pontificatus" ngày 20.9.1939 và "Haurietis Aquas" ngày 15.5.1956.
2. Nền tảng Kinh Thánh cho việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, đó là đoạn Tin Mừng Ga 19,31-37, về việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu chết trên cây thập giá, "một người lính đã lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức có máu cùng nước chảy ra". Một đoạn Tin Mừng khác cũng không thể bỏ qua là Mt 11,25-30 về mạc khải rất quý báu: "Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng...".
3. Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, có ngày lễ Thánh Tâm, và ngày này đã trở thành Ngày Thánh hoá các Linh mục. Chúng ta có thể gợi ra một vài hệ luận đạo đức:
Trước hết, hệ luận liên hệ đến đời sống đạo đức của cá nhân mỗi người: vì biết rằng Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương từng con người cụ thể, yêu thương hết lòng và yêu thương cho đến cùng, cho đến cái chết để cứu độ... nên chúng ta được mời gọi đáp trả, sống giới luật yêu thương "mến Chúa yêu người", theo gương của Ðấng đã yêu thương chúng ta và cũng theo mức độ như Người đã yêu thương, để đi vào cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể yêu thương đón nhận mọi người anh chị em chung quanh. Chớ gì khi được Thánh Tâm Chúa nung đốt, chúng ta cũng biết mặc lấy tâm tình của Chúa, một đàng ý thức thân phận yếu đuối của mình để sám hối ăn năn, và đàng khác biết thật lòng sống yêu thương như Chúa muốn.
Hệ luận thứ hai nhắc nhở chúng ta cầu nguyện nhiều cho hàng linh mục, xin Chúa ban cho các ngài là những mục tử chăm sóc các linh hồn biết để cho Tình Yêu của Chúa uốn nắn, làm cho các ngài nên "những mục tử như lòng Chúa mong muốn".
Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014
Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria
Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ
Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim
vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Pio IX
công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói
thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc
”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria, hoặc các kiểu nói tương tự.
Nhưng nhầt là sau khi
Đức Mẹ hiện ra tại Fatima bên Bồ Đào Nha năm 1917 với ba trẻ mục đồng Lucia,
Phanxicô và Giacinta, và viêc phát hành các bút tích của chị Lucia, kiểu nói
”trái tim vô nhiễm nguyên tội” Mẹ Maria chiếm ưu thế trong thói quen của Giáo
Hội và trong phụng vụ. Nó đạt tột đỉnh giữa các năm 1942-1952, vì ảnh hưởng của
các biến cố tại Fatima đã xác định việc thánh hiến thế giới cho Trái tim vô
nhiễm nguyên tội Đức Mẹ và nhiều cuộc thánh hiến từ phía các cơ cấu giáo hội,
và đôi khi cả từ các tổ chức dân sự. Phong trào tôn sùng Trái Tim vô nhiễm
nguyên tội Đức Mẹ đạt tột đỉnh vào năm 1944 với việc cử hành lễ kính trong toàn
Giáo Hội Latinh. Các năm đó cũng là thời điểm lòng sùng kính Đức Mẹ nở hoa, và
việc tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ Maria đạt cường độ mạnh mẽ chưa từng thấy.
Tuy nhiên, rất tiếc
các năm trước khi Công Đồng Chung Vaticăng II khai mạc, và nhất là thời gian
hậu Công Đồng, lòng tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria gặp khủng
hoảng, cũng giống như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong Thông điệp
”Haurietis aquas” ”Các con sẽ kín múc nước” về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu, công bố ngày 15 tháng 5 năm 1956, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã viết rằng:
”Thật đáng than phiền rằng trong qúa khứ cũng như trong ngày nay, việc phụng tự
rất cao qúy này đã không có được vinh dự và sự trân trọng nơi một số Kitô hữu,
và đôi khi cả nơi một số người nói rẳng họ được linh hoạt bởi sự nồng nhiệt
chân thành đối với các lợi ích của đạo công giáo và việc thánh hóa chính mình”.
Ngay trong năm 1956
Thông điệp đã duyệt xét các lý do qua đó, theo ý kiến của vài tác giả, việc tôn
sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã gặp khủng hoảng. Đối với họ việc tôn sùng Thánh
Tâm là điều không thời sự và không thích hợp, là ”ít đáp ứng, nếu không nói là
làm hại cho các nhu cầu tinh thần cấp thiết nhất của Giáo Hội và của nhân loại
trong giờ phút hiện tại này”; là ”siêu tưới gội, vô ích và nguy hại” đặc biệt
đối với những chiến sĩ của Nước Thiên Chúa, lo lắng thánh hiến điều tốt nhất
trong các năng lực tinh thần của họ để gia tăng các thực hành và các việc đạo
đức, mà họ coi là cần thiết hơn cho thời đại ngày nay”; là ”suy tàn và tình
cảm”, nghĩa là ”một hình thức tôn sùng thấm nhuần tình cảm hơn là các tư tưởng
cao qúy và các trìu mến, và vì thế phù hợp với phái nữ hơn là với các người có
học thức”; là có dấu vết ”yếu đuối thụ động”, bởi vì họ cho rằng ”việc tôn sùng
này qúa bị cột buộc vào các hành động hãm mình, đền tội và các nhân đức mang
dấu vết thụ động, vì thiếu các hoa trái rõ ràng bề ngoài, và do đó ít thích hợp
với việc củng cố tinh thần tu đức tân tiến, mà bổn phận hoạt động công khai
phải có”.
Đây là các thành kiến
đích thật được nuôi dưỡng bởi chủ thuyết duy tự nhiên và khuynh hướng tình cảm
gia tăng. Để giải thích chúng một vài tác giả đã đưa ra các lý do sau đây.
Chẳng hạn như sự không chính xác của nền thần học liên quan tới việc tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu; việc ”đền bù” bị hiểu sai và thực hành lại còn sai hơn
nữa; tinh thần tu đức suy đồi được khích lệ trong một vài hiệp hội đạo đức;
biểu tượng bị áp dụng lệch lạc và được giới thiệu như là một bức màn chắn giữa
Chúa Kitô và tín hữu; một vài sự không hài hòa giữa các hình thái việc tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu và các hình thức sâu xa hơn của lòng đạo đức trong thời
đại chúng ta; các hình thức được gợi hứng bởi giáo hội học, bởi giáo thuyết về
thân mình mầu nhiệm, kinh nghiệm về cuộc sống của Thiên Thúa Ba Ngôi. Thế rồi
còn có sự vỡ mộng và cụt hứng không thể biệm minh, nhưng thực sự đối với vài
”lời hứa” vén mở cho thấy chúng vô ích, khi nhằm bảo đảm cho các cá nhân và xã
hội chống lại các tai ương: thí dụ như ”Ta sẽ thống trị bên Tây Ban Nha với
nhiều tôn sùng hơn các nơi khác”; khuynh hướng tôn sùng ích kỷ và duy lợi ích
xem ra xúi dục sự tôn sùng này, trong khi nó bị hiểu sai; nghệ thuật các ảnh
tượng chưa gặp được các hình thái diễn tả giá trị, vì nó đã không thành công trong
việc cống hiến nhiều hơn là vài kiểu mẫu gợi hứng mòn mỏi hay một sở thích gây
chán nản. Và những nhận xét đại loại kéo dài vô tận, trong các nguyệt san đạo
đức, trong các sách báo tôn giáo, các bài giảng vô vị và tuyệt đối, trái nghịch
với các khuynh hướng tân tiến ngày càng đòi hỏi sự đơn sơ và chân thật.
Ở đây không phải là
chỗ để bênh vực lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ, cũng đã chịu cuộc khủng hoảng
như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, tuy trong các tỷ lệ ít hơn. Các phương
thức giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng này trước hết thuộc trật tự tổng quát, và
cũng là những phương thức cho phép thoát khỏi cuộc khủng hoảng gọi là ”cuộc
khủng hoảng thời hậu công đồng”. Tuy nhiên, không thể coi Công Đồng Chung
Vaticăng II là nguyên do của cuộc khủng hoảng này. Nó đã chỉ là dịp, vì các văn
bản giáo huấn tuyệt hảo của Công Đồng đã chỉ được đọc và áp dụng bởi một vài
lãnh vực trong Giáo Hội. Nói cách khác, chính sự kiện đại đa số Kitô hữu đã
không đọc, không hiểu biết, thấm nhuần, áp dụng và sống các giáo huấn của Công
Đồng nên mới có các lệch lạc gây ra cuộc khủng hoảng đó.
Bởi vì, nếu thực sự
Công Đồng Chung Vaticăng II đã hướng lòng đạo đức của tín hữu tới việc thờ
phượng có tính cách phụng vụ, thì Công Đồng đã không hề lơ là trong việc nhắn
nhủ họ về các cung cách sống đạo bình dân chân thực. Bằng chứng là số 67 Hiến
chế về Giáo Hội viết rõ ràng như sau: ”Giáo Hội khuyến khích hết mọi con cái
hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy
coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn Mẹ và đã được Huấn
Quyền Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết
định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô,
Đức Nữ Trinh và các Thánh.
Công Đồng cũng hết
lòng khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét
đến phẩm giá phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng
phóng đại sai lầm, cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi qúa đáng... nhưng hãy làm sáng
tỏ đúng mức những vai trò và đặc ân của Đức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân
này luôn luôn quy hướng về Chúa Kitô là nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh
thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm
cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo
Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình
cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự đễ tin phù phiếm, nhưng phát
sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao
cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi
gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Như thế, chúng ta
phải công nhận rằng cần canh tân việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim
Đức Mẹ theo các tiêu chuẩn sau đây.
Thứ nhất, trở về với
các nguồn mạch đích thật của việc tôn sùng là Thánh Kinh, Truyền Thống, Huấn
Quyền và suy tư thần học được cập nhật. Dĩ nhiên, không thể bỏ qua vài ”nguồn
mạch” có tính cách thần bí và đặc sủng, khi chúng chân thực như các mạc khải
trong các lần Đức Mẹ hiện ra ở Helfta, Paray-le-Monial, Fatima vv... Tuy nhiên,
các nguồn mạch có tính cách đặc sủng này phải được minh giải và đặt để dưới các
nguồn mạch chính của lòng đạo đức Kitô.
Thứ hai, canh tân các
thực hành ”cổ điển” sùng kính Trái Tim Mẹ Maria và các cơ cấu đã mất tính thời
sự. Điều này đòi hỏi phải duyệt xét nền tảng phê bình lịch sử các ”lời hứa”,
bằng cách nhận ra nơi chúng ý nghĩa sâu xa, mà chúng có trong lãnh vực thần học
về ơn thánh, và tránh đừng để bị lôi kéo bởi cơ chế của các công thức.
Thứ ba, cần có giải
thích thần học ý niệm nền tảng về việc đền tạ để thiết lập một mối dây sâu xa
giữa các việc sùng kính này và các mầu nhiệm cao cả nhập thể và cứu chuộc như
lời thánh Jean Eudes đã nói: ”Tôi muốn cho thấy một cách rõ ràng rằng việc tôn
sùng này không phải là không có nền tảng cũng như lý do, mà nó dựa trên các nền
tảng vững vàng và chắc chắn đến độ tất cả mọi quyền lực của trái đất và của hỏa
ngục cũng không có khả năng phá hủy... và điều này để khơi dậy một sự trân qúy
khác đối với việc tôn sùng Trái Tim rất thánh của Mẹ Thiên Chúa, như là việc
tôn sùng rất vững chắc và rất có nền tảng...” (x. S. De Fiores, Maria presenza
viva nel popolo di Dio, Roma 1980, 86-88).
Tóm lại, có thể nói
lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ
Maria luôn đi song song với nhau. Bởi vì trong gia đình nhân loại đã không hề
có hai trái tim nào và sẽ không bao giờ có hai trái tim nào khác đập cùng nhịp
yêu thương cứu chuộc như Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim vô nhiễm nguyên tội
Mẹ Maria. Phúc cho các Kitô hữu nào có lòng yêu mến và tôn sùng Hai Trái Tim
Cực Thánh ấy, vì Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria sẽ đặc biệt che chở và không bao
giờ để cho họ bị hư mất đời đời.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)