Ngày 30-11
Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài : - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói : - Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ : - Các anh tìm chi vậy ?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại : - Thưa Thầy, thày ở đâu ?
Chúa Giêsu nói : - Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình : - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói : - Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.
Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói :- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Êgêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc : làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện :
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ .
Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012
Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012
Ngày 24-11 CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Ngày 24-11
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 - 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.
Hàng vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.
Tuy nhiên "máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo". Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức tin :
8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC :
1. Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857
2. Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838
3. Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861
4. Thánh Minh (Đaminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838
5. Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861
6. Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochoa) tử đạo ngày 1.11.1861
7. Thánh Xuyên (Giuse Melchior Garcia Sampedro) tử đạo ngày 28.7.1858
8. Thánh Y (Ignatiô Delgađô Hy Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838.
50 VỊ THÁNH LINH MỤC :
1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860
2. Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861
3. Thánh Cẩm (Đaminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859
4. Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835
5. Thánh Dụ (Tôma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839
6. Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838
7. Thánh Dũng (Anrê Trần An Dũng - Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839
8. Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798
9. Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745
10. Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838
11. Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851
12. Thánh Gia (Hyaxintha Castañeda) tử đạo ngày 7.11.1773
13. Thánh Hạnh (Đaminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838
14. Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838
15. Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400
16. Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861
17. Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852
18. Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856
19. Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833
20. Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842
21. Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838
22. Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840
23. Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860
24. Thánh Liêm (Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773
25. Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840
26. Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859
27. Thánh Lựu (Phêrô Lựu) tử đạo ngày 07.4.1861
28. Thánh Mậu (Đaminh Mậu) tử đạo ngày 05.11.1858
29. Thánh Minh (Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853
30. Thánh Năm (Giacôbê Nguyễn Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838
31. Thánh Ngân (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840
32. Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840
33. Thánh Phan (Phanxicô Jaccard) tử đạo ngày 21.9.1838
34. Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859
35. Thánh Tân (Gioan Charles Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837
36. Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745
37. Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857
38. Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861
39. Thánh Tuần (Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838
40. Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838
41. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838
42. Thánh Tước (Đaminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839
43. Thánh Trạch (Đaminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840
44. Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798
45. Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839
46. Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840
47. Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861
48. Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838
49. Thánh Xuyên (Đaminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839
50. Thánh Yến (Vinh Sơn Đỗ Yến) tử đạo ngày 30.6.1838
14 THÁNH THÀY GIẢNG
1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837
2. Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838
3. Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837
4. Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn Văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840
5. Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861
6. Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839
7. Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838
8. Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840
9. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840
10. Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838
11. Thánh Thanh (Gioam B. Đinh Văn Thanh ) tử đạo ngày 28.4.1840
12. Thánh Úy (Đaminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839
13. Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Uyển) tử đạo ngày 4.7.1838
14. Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857
1 THÁNH CHỦNG SINH
Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838
44. THÁNH GIÁO DÂN
1. Thánh Đaminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859
2. Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888
3. Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838
4. Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840
5. Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
6. Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862
7. Thánh Phêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862
8. Thánh Đaminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839
9. Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839
10. Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838
11. Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862
12. Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847
13. Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859
14 . Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840
15. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839
16 . Thánh Đaminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842
17. Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857
18. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854
19. Thánh Đaminh Mạo, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
20. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839
21. Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838
22. Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862
23. Thánh Đaminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
24. Thánh Đaminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
25. Thánh Đaminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862
26. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859
27. Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861
28. Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840
29. Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859
30. Thánh Đaminh Toại, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862
31. Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862
32. Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862
33. Thánh Anrê Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
34. Thánh Vinh Sơn Tương, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862
35. Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835
36. Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858
37. Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841
38. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839
39. Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860
40. Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859
41. Thánh Thông (Anrê Nguyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo 15.7.1855
42. Thánh Martinô Thọ, thuế, lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840
43. Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
44. Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 - 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.
Hàng vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.
Tuy nhiên "máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo". Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức tin :
8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC :
1. Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857
2. Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838
3. Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861
4. Thánh Minh (Đaminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838
5. Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861
6. Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochoa) tử đạo ngày 1.11.1861
7. Thánh Xuyên (Giuse Melchior Garcia Sampedro) tử đạo ngày 28.7.1858
8. Thánh Y (Ignatiô Delgađô Hy Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838.
50 VỊ THÁNH LINH MỤC :
1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860
2. Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861
3. Thánh Cẩm (Đaminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859
4. Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835
5. Thánh Dụ (Tôma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839
6. Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838
7. Thánh Dũng (Anrê Trần An Dũng - Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839
8. Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798
9. Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745
10. Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838
11. Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851
12. Thánh Gia (Hyaxintha Castañeda) tử đạo ngày 7.11.1773
13. Thánh Hạnh (Đaminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838
14. Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838
15. Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400
16. Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861
17. Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852
18. Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856
19. Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833
20. Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842
21. Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838
22. Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840
23. Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860
24. Thánh Liêm (Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773
25. Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840
26. Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859
27. Thánh Lựu (Phêrô Lựu) tử đạo ngày 07.4.1861
28. Thánh Mậu (Đaminh Mậu) tử đạo ngày 05.11.1858
29. Thánh Minh (Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853
30. Thánh Năm (Giacôbê Nguyễn Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838
31. Thánh Ngân (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840
32. Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840
33. Thánh Phan (Phanxicô Jaccard) tử đạo ngày 21.9.1838
34. Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859
35. Thánh Tân (Gioan Charles Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837
36. Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745
37. Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857
38. Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861
39. Thánh Tuần (Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838
40. Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838
41. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838
42. Thánh Tước (Đaminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839
43. Thánh Trạch (Đaminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840
44. Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798
45. Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839
46. Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840
47. Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861
48. Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838
49. Thánh Xuyên (Đaminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839
50. Thánh Yến (Vinh Sơn Đỗ Yến) tử đạo ngày 30.6.1838
14 THÁNH THÀY GIẢNG
1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837
2. Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838
3. Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837
4. Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn Văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840
5. Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861
6. Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839
7. Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838
8. Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840
9. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840
10. Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838
11. Thánh Thanh (Gioam B. Đinh Văn Thanh ) tử đạo ngày 28.4.1840
12. Thánh Úy (Đaminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839
13. Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Uyển) tử đạo ngày 4.7.1838
14. Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857
1 THÁNH CHỦNG SINH
Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838
44. THÁNH GIÁO DÂN
1. Thánh Đaminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859
2. Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888
3. Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838
4. Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840
5. Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
6. Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862
7. Thánh Phêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862
8. Thánh Đaminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839
9. Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839
10. Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838
11. Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862
12. Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847
13. Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859
14 . Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840
15. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839
16 . Thánh Đaminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842
17. Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857
18. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854
19. Thánh Đaminh Mạo, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
20. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839
21. Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838
22. Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862
23. Thánh Đaminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
24. Thánh Đaminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
25. Thánh Đaminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862
26. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859
27. Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861
28. Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840
29. Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859
30. Thánh Đaminh Toại, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862
31. Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862
32. Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862
33. Thánh Anrê Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
34. Thánh Vinh Sơn Tương, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862
35. Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835
36. Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858
37. Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841
38. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839
39. Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860
40. Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859
41. Thánh Thông (Anrê Nguyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo 15.7.1855
42. Thánh Martinô Thọ, thuế, lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840
43. Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
44. Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839
Ngày 22-11 Thánh CÊCILIA Đồng Trinh Tử Đạo
Ngày 22-11
Thánh CÊCILIA
Đồng Trinh Tử Đạo
Cuộc tử nạn của thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập lại.
Nhưng những thế kỷ đầu không thấy nói gì tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô. Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài. Ba trăm năm sau cuộc tử đạo giả định này, câu chuyện của thánh nữ xem ra là một trong những áng văn đẹp nhất làm say mê tín hữu và phổ biến rộng rãi lạ thường. Câu chuyện tưởng tượng về thánh nữ Cêcilia được chen vào giữa hai vị tử đạo có thật là Valêriô và Tiburtiô. Truyện đó như sau :
Cêcilia thuộc gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một mình trong gia đình là Kitô hữu, Ngài luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma chìa tay xin Ngài phân phát của bố thí. Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra bình thản dịu dàng.
Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một mình Ngài thôi. Đáp lại lòng đạo đức của Ngài, Thiên Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên tnần hộ thủ hiện diện bên mình.
Cha mẹ Cêcilia gả Ngài cho một nhà quí phái tên là Valêriô yêu Cêcilia nồng nhiệt, ông không biết Ngài theo Kitô giáo, nhưng ông có một tâm hồn ngay thẳng.
Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho mình được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự lòng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valêriô:
- Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, vì em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh.
Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valêriô đã ao ước nhìn thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: ông phải chịu phép rửa tội đã, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: - Anh hãy tới đường Appianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc bình an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em.
Valêriô theo lời vị hôn thê của mình, đến đường Appianô và được dẫn tới vị giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia . Ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói:
- "Hãy giữ lòng trong trắng để xứng đáng bảo vệ những triều thiên này, chúng từ vườn của Thiên Chúa, không bao giờ tàn tạ, chẳng hề lạt hương".
Thiên thần còn nói thêm : - "Hỡi Valêriô, bởi vì anh đã biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều gì anh muốn".
Valêriô có người em ông yêu thương lắm tên là Tiburtiô, ông xin : - "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con"
Thiên thần trả lời : - Điều anh xin rất đẹp lòng Chúa. Vậy hãy biết rằng: Tiburtiô và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo".
Ngay lúc ấy Tiburtiô xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đã nói cho Cêcilia ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đã tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tiburtiô muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đã lãnh nhận bí tích rửa tội do đức giáo hoàng Urbanô.
Cêcilia, Valêriô và Tiburtiô cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo.
Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachiô ngac nhiên hỏi: - Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao ?
Cêcilia trả lời : - Thật đẹp lòng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà Ngài kết án là tử tội.
Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valêriô và Tiburtiô và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đã khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachiô rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đã nói: - Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ.
Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachiô liền tống giam các Ngài. Bị vấn danh Ngài nói : - Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi.
Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời : - Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: - Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng.
Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: - Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không ?
Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachiô mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachiô truyền chém đầu Ngài lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần đã hứa.
Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hao không tàn.
Hơn một nghìn năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng đã nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh.
Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đã dâng nhiều dinh thự làm nhà thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đã được mang.
Thánh CÊCILIA
Đồng Trinh Tử Đạo
Cuộc tử nạn của thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập lại.
Nhưng những thế kỷ đầu không thấy nói gì tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô. Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài. Ba trăm năm sau cuộc tử đạo giả định này, câu chuyện của thánh nữ xem ra là một trong những áng văn đẹp nhất làm say mê tín hữu và phổ biến rộng rãi lạ thường. Câu chuyện tưởng tượng về thánh nữ Cêcilia được chen vào giữa hai vị tử đạo có thật là Valêriô và Tiburtiô. Truyện đó như sau :
Cêcilia thuộc gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một mình trong gia đình là Kitô hữu, Ngài luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma chìa tay xin Ngài phân phát của bố thí. Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra bình thản dịu dàng.
Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một mình Ngài thôi. Đáp lại lòng đạo đức của Ngài, Thiên Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên tnần hộ thủ hiện diện bên mình.
Cha mẹ Cêcilia gả Ngài cho một nhà quí phái tên là Valêriô yêu Cêcilia nồng nhiệt, ông không biết Ngài theo Kitô giáo, nhưng ông có một tâm hồn ngay thẳng.
Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho mình được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự lòng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valêriô:
- Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, vì em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh.
Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valêriô đã ao ước nhìn thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: ông phải chịu phép rửa tội đã, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: - Anh hãy tới đường Appianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc bình an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em.
Valêriô theo lời vị hôn thê của mình, đến đường Appianô và được dẫn tới vị giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia . Ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói:
- "Hãy giữ lòng trong trắng để xứng đáng bảo vệ những triều thiên này, chúng từ vườn của Thiên Chúa, không bao giờ tàn tạ, chẳng hề lạt hương".
Thiên thần còn nói thêm : - "Hỡi Valêriô, bởi vì anh đã biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều gì anh muốn".
Valêriô có người em ông yêu thương lắm tên là Tiburtiô, ông xin : - "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con"
Thiên thần trả lời : - Điều anh xin rất đẹp lòng Chúa. Vậy hãy biết rằng: Tiburtiô và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo".
Ngay lúc ấy Tiburtiô xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đã nói cho Cêcilia ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đã tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tiburtiô muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đã lãnh nhận bí tích rửa tội do đức giáo hoàng Urbanô.
Cêcilia, Valêriô và Tiburtiô cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo.
Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachiô ngac nhiên hỏi: - Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao ?
Cêcilia trả lời : - Thật đẹp lòng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà Ngài kết án là tử tội.
Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valêriô và Tiburtiô và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đã khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachiô rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đã nói: - Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ.
Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachiô liền tống giam các Ngài. Bị vấn danh Ngài nói : - Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi.
Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời : - Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: - Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng.
Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: - Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không ?
Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachiô mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachiô truyền chém đầu Ngài lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần đã hứa.
Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hao không tàn.
Hơn một nghìn năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng đã nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh.
Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đã dâng nhiều dinh thự làm nhà thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đã được mang.
Ngày 21-11 Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh
Ngày 21-11
Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh
Nói về lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết : "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng mình và đền thánh"
Việc Đức Mẹ dâng mình và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đã nhận các trinh nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ còn được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đã phát triển sớm hơn bình thường, vì không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đã dâng mình cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết.
Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" còn cho rằng ngài đã thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đã diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh.
Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đã được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđã xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến.
Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đã thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đã mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V bãi bỏ và được đức Sixtô V tái lập.
Nhiều nhà dòng đã chọn lễ này làm ngày khấn dòng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.
Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh
Nói về lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết : "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng mình và đền thánh"
Việc Đức Mẹ dâng mình và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đã nhận các trinh nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ còn được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đã phát triển sớm hơn bình thường, vì không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đã dâng mình cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết.
Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" còn cho rằng ngài đã thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đã diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh.
Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đã được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđã xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến.
Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đã thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đã mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V bãi bỏ và được đức Sixtô V tái lập.
Nhiều nhà dòng đã chọn lễ này làm ngày khấn dòng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.
Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012
Ngày 17-11 Thánh ELISABETH Nước Hungaria
Ngày 17-11
Thánh ELISABETH Nước Hungaria
Nữ Tu (1207 - -1231)
Em bé 4 tuổi mặc ái nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia, là con vua Hungaria. Tên Ngài là Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử Luy (Louis) mười một tuổi con của Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường Ngài lớn lên tại cung điện Thuringia.
Elisabeth xem ra đã được tiền định với niềm vui, được cầu nguyện hãm mình và mỗi ngày hy sinh một điều thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng lại. Một phần những cái người ta cho Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không phải mọi người đều vui lòng khi thấy Ngài lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của Luy tức giận vì sự hoàn thiện này.
Khi bà dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai. Thế là công chúa và con mình khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng để làm vợ của bá tước. Nhưng khi Luy đã trở lại triều đình chàng ngây ngất vì vị hôn thê trẻ của mình. Chàng chọn làm châm ngôn những đức tính : đạo đức, trong sạch và công bình. Chàng đã cử hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và nàng 14.
Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: "Bà kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu nguyện". Ngày sống của nữ bá tước được phân phối cho công việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của mình. Người ta thích kể lại một huyền thoại làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau:
Vào một ngày mùa đông. Luy đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông hỏi : - Em mang gì đó ?
Vạch áo ra ông chỉ thấy những bó hoa hồng trắng rất đẹp không mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động vì phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lý tưởng của mình hơn nữa.
Còn chính thánh nữ thì tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã hôn chân các người cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm. Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài. Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu nguyện làm chứng : "Ngài hoàn thành những công trình bác ái trong tâm hồn vui tươi và không đổi nét mặt".
Chính Elisabeth đã nói về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột : "Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu thích những kẻ cho một cách vui tươi".
Luy phải ra trận. Đây là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công mà lãnh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ, Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài thiết lập những nhà thương. Dân chúng gọi Ngài là "mẹ". Khi chồng trở về, thánh nữ thường cười nói: - Em đã dâng cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo vệ của cải của chúng ta,
Nhưng đã đến lúc những thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài ngày sau thánh nữ sinh hạ người con thứ ba. Ngài như điên lên vì đau đớn, nhưng đã chứng tỏ lòng đai độ từ bỏ thánh nữ đã có từ buổi thiếu thời. Hình ảnh cổ truyền còn diễn tả thánh nữ, bị người em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc ôm con nhỏ đi vào đường mòn sỏi đá giữa mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu bên tay...
Thực tế là người em rể đã một thời không cho Ngài được thừa hưởng của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đã chọn được nên nghèo khó. Thực vậy, Ngài đã phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và đã biết khốn cực là gì. Người đày tớ theo Ngài kể rằng: - "Bị bắt bớ bởi những chư hầu của chồng, thiếu mọi thứ của cải và vì thiếu thốn, Ngài đã phải gửi con đến những miền xa để chúng được nuôi dưỡng ở đó.
Dầu vậy, Ngài vẫn cảm tạ Chúa và đã bóc lột Ngài như thế, và trong một nguyện đường các anh em hèn mọn Ngài đã đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ bỏ tất cả.
Cậu của Ngài là giám mục miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và còn gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài. Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa.
"Lạy Chúa, con yêu biết bao. Nhưng Chúa biết con không hối tiếc việc hy sinh người yêu của con cho Chúa. Anh đã tự hiến mình cho Chúa, con cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng tỏ rằng: nếu trái với ý Chúa, con sẽ không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến sợi tóc đi nữa... Nguyện ý Chúa thành sự trong chúng con".
Người góa phụ trẻ không muốn có phần gì đối với vinh hoa trần thế nữa, đã mặc áo dòng ba Phanxicô và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một nhà thương là nơi bà ngồi ăn chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở trong một ngôi nhà bằng cây vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những hy sinh cực khổ hơn nữa.
Cha giải tội của Ngài là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ tạo nên cảm tình của hai người bạn từ hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho Ngài giữ họ gần mình nữa. Thay vào đó là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi đêm sáu lần và chính Ngài giặt giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết, Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong cùi và nói: - Tôi không đang cởi giây giầy cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở vào đại vị của em.
Đứa trẻ chết, lại một người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị hướng dẫn còn dùng đến những cư xử nghiệt ngã lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng: "ông ta có thể đánh vào mặt Ngài, nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như một người đang chiêm niệm. Ngài qua những giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực sáng.
Nhưng Elisabeth yếu dần và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19 tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đã có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Thánh ELISABETH Nước Hungaria
Nữ Tu (1207 - -1231)
Em bé 4 tuổi mặc ái nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia, là con vua Hungaria. Tên Ngài là Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử Luy (Louis) mười một tuổi con của Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường Ngài lớn lên tại cung điện Thuringia.
Elisabeth xem ra đã được tiền định với niềm vui, được cầu nguyện hãm mình và mỗi ngày hy sinh một điều thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng lại. Một phần những cái người ta cho Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không phải mọi người đều vui lòng khi thấy Ngài lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của Luy tức giận vì sự hoàn thiện này.
Khi bà dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai. Thế là công chúa và con mình khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng để làm vợ của bá tước. Nhưng khi Luy đã trở lại triều đình chàng ngây ngất vì vị hôn thê trẻ của mình. Chàng chọn làm châm ngôn những đức tính : đạo đức, trong sạch và công bình. Chàng đã cử hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và nàng 14.
Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: "Bà kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu nguyện". Ngày sống của nữ bá tước được phân phối cho công việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của mình. Người ta thích kể lại một huyền thoại làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau:
Vào một ngày mùa đông. Luy đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông hỏi : - Em mang gì đó ?
Vạch áo ra ông chỉ thấy những bó hoa hồng trắng rất đẹp không mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động vì phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lý tưởng của mình hơn nữa.
Còn chính thánh nữ thì tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã hôn chân các người cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm. Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài. Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu nguyện làm chứng : "Ngài hoàn thành những công trình bác ái trong tâm hồn vui tươi và không đổi nét mặt".
Chính Elisabeth đã nói về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột : "Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu thích những kẻ cho một cách vui tươi".
Luy phải ra trận. Đây là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công mà lãnh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ, Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài thiết lập những nhà thương. Dân chúng gọi Ngài là "mẹ". Khi chồng trở về, thánh nữ thường cười nói: - Em đã dâng cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo vệ của cải của chúng ta,
Nhưng đã đến lúc những thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài ngày sau thánh nữ sinh hạ người con thứ ba. Ngài như điên lên vì đau đớn, nhưng đã chứng tỏ lòng đai độ từ bỏ thánh nữ đã có từ buổi thiếu thời. Hình ảnh cổ truyền còn diễn tả thánh nữ, bị người em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc ôm con nhỏ đi vào đường mòn sỏi đá giữa mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu bên tay...
Thực tế là người em rể đã một thời không cho Ngài được thừa hưởng của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đã chọn được nên nghèo khó. Thực vậy, Ngài đã phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và đã biết khốn cực là gì. Người đày tớ theo Ngài kể rằng: - "Bị bắt bớ bởi những chư hầu của chồng, thiếu mọi thứ của cải và vì thiếu thốn, Ngài đã phải gửi con đến những miền xa để chúng được nuôi dưỡng ở đó.
Dầu vậy, Ngài vẫn cảm tạ Chúa và đã bóc lột Ngài như thế, và trong một nguyện đường các anh em hèn mọn Ngài đã đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ bỏ tất cả.
Cậu của Ngài là giám mục miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và còn gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài. Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa.
"Lạy Chúa, con yêu biết bao. Nhưng Chúa biết con không hối tiếc việc hy sinh người yêu của con cho Chúa. Anh đã tự hiến mình cho Chúa, con cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng tỏ rằng: nếu trái với ý Chúa, con sẽ không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến sợi tóc đi nữa... Nguyện ý Chúa thành sự trong chúng con".
Người góa phụ trẻ không muốn có phần gì đối với vinh hoa trần thế nữa, đã mặc áo dòng ba Phanxicô và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một nhà thương là nơi bà ngồi ăn chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở trong một ngôi nhà bằng cây vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những hy sinh cực khổ hơn nữa.
Cha giải tội của Ngài là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ tạo nên cảm tình của hai người bạn từ hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho Ngài giữ họ gần mình nữa. Thay vào đó là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi đêm sáu lần và chính Ngài giặt giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết, Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong cùi và nói: - Tôi không đang cởi giây giầy cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở vào đại vị của em.
Đứa trẻ chết, lại một người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị hướng dẫn còn dùng đến những cư xử nghiệt ngã lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng: "ông ta có thể đánh vào mặt Ngài, nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như một người đang chiêm niệm. Ngài qua những giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực sáng.
Nhưng Elisabeth yếu dần và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19 tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đã có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Ngày 12-11 Thánh GIOSAPHAT
Ngày 12-11
Thánh GIOSAPHAT
Giám mục, Tử đạo (1580 - 1625)
Thánh Giosaphat sinh năm 1580 (vài tác giả nói là 1584), ở Vladimir, thủ đô của Volynia miền Ukraine, rồi sau là một tỉnh của Balan dầu cha mẹ Ngài thuộc dòng quí phái, nhưng họ đã nhập thương trường với vài thành công và cha Ngài đã trở thành nghị viên thành phố. Giosaphat (tên rửa tội là Gioan) trước hết đã học nghề với một thương gia ở Vilna miền Lithuania và làm việc với ông tới năm 1604 khi Ngài trở thành một tu sĩ nhà dòng Basiliô ở Vilna.
Các Kitô hữu Ruthenia và Ukraina phần lớn theo nghi thức Byzantine bị phân rẽ sâu xa kể từ khi một số đông các giám mục của họ năm 1596 tuyên bố ở Brest- Litovsk hiệp nhất với Giáo hội Roma. Thượng phụ giáo chủ ở Constantinople đã cố gắng ngăn cản sự chia cắt này khỏi giáo hội chính thống và đã đặt một vị nhiếp chính cho Ruthenia vì mục đích này. Điều này chẳng quen thuộc với các bậc vị vọng địa phương vì họ coi đó như một đe dọa cho sự tự chủ của họ, nhưng lại được vương quốc Balan và chính quyền trung ương ủng hộ hoàn toàn.
Dầu vậy suốt cuộc đời, thánh Giosaphat luôn trung thành với Thánh nhân, viễn quan thiêng liêng và phụng vụ của Ngài theo nghi thức Byzantine. Ngài đã học thuộc lòng toàn sách các phép bằng tiếng Slave như một đứa trẻ, nắm giữ nghiêm nhặt việc ăn chay theo lịch Byzantine còn nhặt nhiệm hơn lịch chay tịnh của Roma nhiều, và kinh nguyện Ngài cũng dùng nhiều nhất là "Kinh nguyện Chúa Giêsu", lòng sùng kính được nhiều nhà khổ hạnh và thần trí Kitô giáo Đông phương ưa thích. Nhưng lý lẽ của nhưng người theo Chính thống hay giáo hoàng, và những thúc đẩy đưa tới đối nghịch chính trị đều vô nghĩa đối với thánh Giosaphat, Ngài không thể tin được rằng những việc sùng mộ và phong tục của dân tộc Ngài và dĩ nhiên của toàn thế giới lại không hòa được với sự trung thành đối với Giáo hội hiệp nhất dưới thánh nhan.
Ngài sớm nổi tiếng với những khắc khổ nhiệm nhặt và với kiến thức của Ngài. Ngài được tấn phong linh mục năm 1609 và sớm nổi tiếng như là vị hứơng dẫn thiêng liêng. Ngài cũng viết nhiều sách tranh luận về thời này (về phép tửa của thánh Vladimir, về sự gải mạo của các sách tiếng Slave).
Năm 1617, Ngài được thánh hiến làm giám mục Vitebsk với quyền kế vị Đức Tổng giám mục Pskov. Ngài đã làm tổng giám mục Pskov năm 1618. Được dân chúng kính trọng, Ngài lại cương quyết với những người ly khai, không chấp nhận cả những nhượng bộ chính quyền trung ương Balan định làm. Năm 1623 khi đang viếng Vitebsk, Ngài bị một đám đông theo tinh thần quốc gia quá khích tấn công chặt đầu và bắn chết. Xác Ngài được đưa về Pskov và trên đường về này đã được nhiều người tôn kính gồm cả những người thủ địch của Ngài nữa.
Cuộc tử đạo của Ngài đã bảo đảm sự hồi sinh của Giáo hội công giáo Slave. Họ khác về phong tục, kỷ luật, phụng vụ và ngôn ngữ với người Balan theo công giáo Roma, trong khi đó họ vẫn độc lập với Maxcơva và người Nga vì sự liên kết của họ với Roma. Bởi đó họ trở thành một trung tâm quan trọng của phong trào quốc gia Ruthania.
Đức giáo hoàng Urbanô VIII năm 1628 đã khởi đầu cuộc án phong thánh cho Giosaphat khi mở mộ ra và thấy xác Ngài còn nguyên vẹn. Ngài được phong chân phước năm 1643 và được phong thánh năm 1867.
Thánh GIOSAPHAT
Giám mục, Tử đạo (1580 - 1625)
Thánh Giosaphat sinh năm 1580 (vài tác giả nói là 1584), ở Vladimir, thủ đô của Volynia miền Ukraine, rồi sau là một tỉnh của Balan dầu cha mẹ Ngài thuộc dòng quí phái, nhưng họ đã nhập thương trường với vài thành công và cha Ngài đã trở thành nghị viên thành phố. Giosaphat (tên rửa tội là Gioan) trước hết đã học nghề với một thương gia ở Vilna miền Lithuania và làm việc với ông tới năm 1604 khi Ngài trở thành một tu sĩ nhà dòng Basiliô ở Vilna.
Các Kitô hữu Ruthenia và Ukraina phần lớn theo nghi thức Byzantine bị phân rẽ sâu xa kể từ khi một số đông các giám mục của họ năm 1596 tuyên bố ở Brest- Litovsk hiệp nhất với Giáo hội Roma. Thượng phụ giáo chủ ở Constantinople đã cố gắng ngăn cản sự chia cắt này khỏi giáo hội chính thống và đã đặt một vị nhiếp chính cho Ruthenia vì mục đích này. Điều này chẳng quen thuộc với các bậc vị vọng địa phương vì họ coi đó như một đe dọa cho sự tự chủ của họ, nhưng lại được vương quốc Balan và chính quyền trung ương ủng hộ hoàn toàn.
Dầu vậy suốt cuộc đời, thánh Giosaphat luôn trung thành với Thánh nhân, viễn quan thiêng liêng và phụng vụ của Ngài theo nghi thức Byzantine. Ngài đã học thuộc lòng toàn sách các phép bằng tiếng Slave như một đứa trẻ, nắm giữ nghiêm nhặt việc ăn chay theo lịch Byzantine còn nhặt nhiệm hơn lịch chay tịnh của Roma nhiều, và kinh nguyện Ngài cũng dùng nhiều nhất là "Kinh nguyện Chúa Giêsu", lòng sùng kính được nhiều nhà khổ hạnh và thần trí Kitô giáo Đông phương ưa thích. Nhưng lý lẽ của nhưng người theo Chính thống hay giáo hoàng, và những thúc đẩy đưa tới đối nghịch chính trị đều vô nghĩa đối với thánh Giosaphat, Ngài không thể tin được rằng những việc sùng mộ và phong tục của dân tộc Ngài và dĩ nhiên của toàn thế giới lại không hòa được với sự trung thành đối với Giáo hội hiệp nhất dưới thánh nhan.
Ngài sớm nổi tiếng với những khắc khổ nhiệm nhặt và với kiến thức của Ngài. Ngài được tấn phong linh mục năm 1609 và sớm nổi tiếng như là vị hứơng dẫn thiêng liêng. Ngài cũng viết nhiều sách tranh luận về thời này (về phép tửa của thánh Vladimir, về sự gải mạo của các sách tiếng Slave).
Năm 1617, Ngài được thánh hiến làm giám mục Vitebsk với quyền kế vị Đức Tổng giám mục Pskov. Ngài đã làm tổng giám mục Pskov năm 1618. Được dân chúng kính trọng, Ngài lại cương quyết với những người ly khai, không chấp nhận cả những nhượng bộ chính quyền trung ương Balan định làm. Năm 1623 khi đang viếng Vitebsk, Ngài bị một đám đông theo tinh thần quốc gia quá khích tấn công chặt đầu và bắn chết. Xác Ngài được đưa về Pskov và trên đường về này đã được nhiều người tôn kính gồm cả những người thủ địch của Ngài nữa.
Cuộc tử đạo của Ngài đã bảo đảm sự hồi sinh của Giáo hội công giáo Slave. Họ khác về phong tục, kỷ luật, phụng vụ và ngôn ngữ với người Balan theo công giáo Roma, trong khi đó họ vẫn độc lập với Maxcơva và người Nga vì sự liên kết của họ với Roma. Bởi đó họ trở thành một trung tâm quan trọng của phong trào quốc gia Ruthania.
Đức giáo hoàng Urbanô VIII năm 1628 đã khởi đầu cuộc án phong thánh cho Giosaphat khi mở mộ ra và thấy xác Ngài còn nguyên vẹn. Ngài được phong chân phước năm 1643 và được phong thánh năm 1867.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)