GIÁO XỨ CHÍNH TÒA PHAN THIẾT HÂN HOAN CHÀO ĐÓN CÁC BẠN

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Ngày 08-12

ĐỨC MARIA
 VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Một trong những lễ đẹp lòng trái tim Mẹ Maria nhất, chắc chắn là lễ vô nhiễm nguyên tội. Thánh lễ này nhằm tôn kính đặc ân riêng cho mẹ là đã được thụ thai trong lòng thánh Anna một cách tinh tuyền không vương tì ố. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi tội tổ tông, tội mà vì mọi người chúng ta khi sinh ra đều vướng mắc vì thuộc dòng giống Adam. Đức Maria, do một đặc ân duy nhất, từ lúc hình thai, vẫn luôn tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Chúa. Bởi vậy, do ơn thánh và do cuộc sống, Mẹ luôn là đối tượng đẹp mắt Chúa, theo như lời thánh kinh đã được quy về Mẹ: - Mẹ tuyệt mỹ, không hề vương vấn tội tình.

Người ta có thể tự hỏi, làm sao lại có đặc ân này ? Để trả lời cho trường hợp đặc biệt này, chúng ta chạy đến ơn phúc của Chúa Giêsu Kitô. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã có sức mạnh toàn năng để cứu nhân loại khỏi tội nguyên tổ, cũng đã giữ gìn cho Mẹ khỏi tội tổ tông. Chắc chắn đây là một phép lạ, nhưng phép lạ này không lạ lùng hơn các điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Mẹ. Hơn nữa, các dặc ân khác Đức Mẹ thụ hưởng mà chúng ta chấp nhận sễ dàng, đều là hiệu quả của ơn vô nhiễm nguyên tội và giả thuyết ơn huệ này, nếu chối bỏ ơn Vô Nhiễm nguyên tội, mỗi biến cố trong cuộc đời Đức Maria đều giả thiết một phép lạ mới, nhưng với ơn vô nhiễm nguyên tội, mọi điều đều có thể giải thích được dễ dàng, vì không vương mắc tội nguyên, Mẹ Maria vượt qua tất cả những gì là hiệu quả và hình phạt do tội gây nên, như tình tư dục, thống khổ và tan rữa sau khi chết. Con người không mắc tội nguyên tổ là một bí ẩn không thể giải thích nổi. Đức Maria, nếu mắc tội nguyên tổ lại còn là một bí ẩn khó giải thích hơn nữa.

Niềm tin vào sự vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria là một niềm tin không thễ thay đổi. Các nhà thần học đã chứng minh điều đó, các giáo phụ giảng dạy, các nhà giảng thuyết phổ biến... nhưng thời đại của chúng ta được thấy sự vinh quang cao cả này trở thành tín điều trong đức tin Kitô giáo, ngày 8 tháng 12 năm 1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 Đức Tổng giám mục và 92 Đức Giám mục cùng đoàn người đông đảo, vị đại diện Chúa Kitô đã tuyên bố tín điều từ bao thế kỷ đợi trông. Chúng ta kể ra một vài lý do khiến Giáo hội công bố tín điều : Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

1. Chúa Giêsu Kitô, vì sự thánh thiện của Ngài, phải được sinh ra bởi người mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. Đấng thấy cả tì vết nơi các thiên thần, lại chịu sinh ra từ một thân thể bị nhơ nhớp vì tội lỗi được sao ? Thân xác của Chúa Kitô là xác thân bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai trong tội, hẳn Ngài đã thông truyền cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa !

 2. Vinh quang của Chúa Giêsu phải giữ cho Mẹ Người khỏi vết nhơ tội nguyên. Mục đích của Chúa Con khi xuống trần gian này là để hủy diệt sự uy quyền của quỉ dữ và tội lỗi. Người đã thắng ma quỉ khi nhờ phép rửa tội, đưa các Kitô hữu ra hỏi vòng tội lỗi, thanh tẩy các tội nhân nhờ phép giải tội. Người đã thắng ma quỉ cả trước khi Người sinh ra, như khi thánh hóa từ lòng mẹ tiên tri Giêrêmia, thánh Gioan tẩy giả, thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ.

Nhưng những chiến thắng này chưa hoàn toàn. Còn một lúc mà quyền lực hỏa ngục khoe khoang rằng: có thể làm cho ơn thánh bị vô hiệu, đó là lúc thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ hoàn hảo nếu Mẹ Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội, đặc ân này thể hiện lời hứa đã được loan báo từ trước: - Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa giòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân" (St 3,15).

Niềm tin vào ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria đã được chính Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày tuyên bố tín điều, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và tuyên bố : - Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai.

Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh nữ Maria Vô nhiễm nguyên tội vào mùa vọng có một ý nghĩa đặc biệt, như mừng "cuộc chuẩn bị căn bản cho Đấng Cứu thế xuất hiện, vầng đông sáng tươi của một Hội Thánh không tì vết" (Marialis Cultus 3)
Ngày 07-12

Thánh AMBRÔSIÔ
Gíam mục và tiến sĩ Hội Thánh
 (339 - 397)

Thánh Ambrôsiô chào đời khoảng năm 339 tại Augusta Trevororum. Cha Ngài, ông Aurlio Ambrôsiô làm tổng trấn xứ Gauules và là nghị sĩ viện quí tộc. Nhưng ông chết sớm, mẹ Ngài trở về Roma với 3 người con: Ambrosiô. Marcellina và Satyra, cả 3 đều nên thánh.

Ambrôsiô chưa lãnh phép rửa tội như thói quen thời ấy hay chần chừ, sợ mất ơn phép rửa tội, nhưng Ngài đã sống tuổi thơ ấu đạo đức. Lớn lên, Ngài tỏ ra thông minh đặc biệt, nổi tiếng về thơ văn, tài hùng biện và luật pháp. Thuộc dòng quí tộc, Ambrôsiô được đặt làm lãnh sự tỉnh Emilia và Liguria với thị trấn là Milan. Probus, vị tổng trấn theo Kitô giáo đã khuyên Ngài : - "Hãy đi và hành động như một giám mục hơn là quan án".

Và người ta thán phục nhà quí tộc Kitô giáo vì sự khôn ngoan tỉnh thức và hiền hậu của Ngài. Giám mục Milan qua đời, một cộng đoàn tập hợp trong nhà thờ, người ta gây ồn ào xáo trộn tại đó vì chiahai phe: phe công giáo và phe theo Ariô. Ambrôsiô với tư cách là nhà cầm quyền đã đến dàn xếp. Ngài diễn thuyết kêu gọi hoà bình và khuyên dân chúng khôn ngoan chọn lựa, Ngài nói một cách đáng phục đến nỗi mọi tín hữu đều một tiếng kêu lớn : "Ambrôsiô làm giám mục".

Hết còn phân ly, người ta ôm nhau khóc vì vui mừng. Hoàng đế Valentinô đã chuẩn nhận việc tuyển chọn bất ngờ này.

Lúc ấy, Ambrôsiô còn là một dự tòng, nên cảm thấy mình bất xứng để làm cha linh hồn của cả đoàn dân Ngài. Ngài đã có lần trốn thoát đến nỗi còn muốn gây cớ xúc phạm để tỏ ra bất xứng, nhưng vẫn không đánh lừa nổi ai. Ngài còn viết thư cho các giám mục và hoàng để xin cáo lui, nhưng hoàng đế còn bày tỏ lòng thán phục : - "Không có một tinh thần nào ngay chính hơn, đây là một tay lái không thể uốn cong được".

Ambrôsiô dành nhiều miễn cưỡng chấp nhận. Ngày 24 tháng 11 Ngài chịu phép Rửa tội. Ngày 07 tháng 12 năm 374 Ngài đã thụ phong linh mục và được thánh hiến giám mục. Ngài nói : - "Tôi bắt đầu dạy dỗ điều mà tôi không được học".

Ambrôsiô không coi mình như người thuộc thế gian nữa, Ngài phân phát của cải cho người nghèo và dâng đất đai cho Giáo hội. Một phần đêm khuya dành để cầu nguyện và học hỏi. Ngài học các tác phẩm Kitô giáo, nhất bằng tiếng Hy Lạp và đào sâu thần học. Buổi rạng đông, dâng lễ rồi vào bàn làm việc. Ngài rao giảng để tái hồi giáo phận bị xáo trộn bởi phái Ariô. Ngài mở rộng cửa tiếp đón mọi người cần đến mình. Thánh Augustinô mà Ngài góp phần cải hóa đã gọi Ngài là thầy. Khi dạy dỗ, Ngài tỏ ra hiền hậu mà người ta gọi là "sự ngọt ngào của Ambrôsiô".

Khi ngồi tòa, Ngài đã khóc như chính mình là tội nhân. Không có giờ ăn, Ngài như chay tịnh liên tiếp. Việc mục vụ nặng nề không ngăn cản Ngài tỏ ra là một thủ lãnh quyết bảo vệ đức tin công giáo. Ở Roma, tại cung điện nữ hoàng Justina theo Ariô, muốn chiếm nhà thờ Milan, giám mục chống lại và quyết bảo vệ thánh đường. Từ Chúa nhật lễ lá tới thứ năm tuần thánh, một đoàn người công hãm thánh đường. Ambrôsiô dùng việc giảng dạy và thánh ca để giữ tín hữu. Những người yêu mến Ngài làm thành một hàng rào bao quanh Ngài. Cuối cùng, chiến thắng về tay Ambrôsiô. Ngài vẫn luôn tỏ thái độ cương quyết như thế.

Đế quốc rơi vào tay Theodosiô. Vị Tân hoàng đế rất quí chuộng và kính trọng giám mục. Đức giám mục cũng yêu mến ông bằng tình phụ tử, nhưng không vì thế mà thành ra yếu đuối bất công. Theodosiô trên đài vinh quang, để trừng phạt cuộc nổi loạn ở Thesalonica, đã ra lệnh tàn sát dã man. Thánh Ambrôsiô viết thư quở trách, bắt ông hối cải và cấm vào thánh đường. Ít lâu sau, Theodosiô chiến thắng trở về Milan với binh sĩ muốn vào thánh đường, đức giám mục đứng ở cưả ngăn ông lại và trách cứ ông. Hoàng đế lui về hoàng cung thống hối trong tám tháng. Ngày lễ Giáng sinh, ông khóc lóc xin tha tội. Ông cởi áo bào, phục dưới thềm nhà thờ và xếp hàng giữa đám tội nhân công khai. Không bao giờ ông còn chiếm chỗ danh dự nơi cung thánh nữa. Dân Milan rất thán phục vị vua đã đền tội cách quảng đại như vậy.

Về sau, ông lại đi dẹp một cuộc nổi loạn mới. Thánh Ambrôsiô lại viết cho ông : - "Chiến thắng của vua sẽ bất toàn nếu vua không tha cho các kẻ nổi loạn".

Vua đã tha. Trở về, Ambrôsiô ôm ông và khóc vì vui mừng. Vua đã qua đời trong tay vị giám mục. Với hoàng tử kế vị. Thánh Ambrôsiô nói : -"Ông không phải làm vua để phục vụ lợi ích gia đình mình thôi, nhưng là để cai quản mọi người".

Và đối với vị vua băng hà, thánh Ambrôsiô nói : - "Tôi yêu mến con người này, vì đã ưa người quở trách mình hơn bọn nịnh thần. Hoàng đế đã không mắc cỡ khi hoàn tất việc thống hối công khai và không ngày nào mà không khóc lỗi lầm mình".

Thánh Ambrôsiô còn sống thêm hai năm sau cái chết của vua Theodosiô. Nghe loan báo về cơn bệnh của Ngài, một viên chức của nhà vua tuyên bố : - "Con người này mà chết đi thì Italia sẽ bị đe dọa tàn phá đến nơi".

Danh tiếng của Ngài vang dội đến nỗi rợ dân đã không dám chống lại Ngài. Có những thủ lãnh tin rằng: Ngài có thể ngưng mặt trời lại. Ngài đã hạnh phúc dùng thư tín mà cải hoá được nữ hoàng Marcômans. Trước khi qua đời ngày 4 tháng 4 năm 379 Ngài đã tổ chức các tòa giám mục miền bắc Italia. Theo một tường thuật, Ngài đã nằm, tay chéo lại như hình Thánh giá và người ta có thể thấy như môi Ngài vẫn cầu nguyện không ngừng.

Gần mộ Ngài sẽ đặt phần mộ Marcellina, người em mà Ngài yêu qúi hơn cả. Con người và sự sống của thánh nữ chính nhờ sự dẫn dắt của Ngài đã hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Ambrôsiô đã để lại một công trình đáng kể.

Ngày 06-12 Thánh NICÔLA

Ngày 06-12

Thánh NICÔLA
Giám Mục - (Thế kỷ IV)

Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.

Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.

Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.

Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.

Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi...

Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ : "Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng".

Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.

Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.

Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.

Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.

Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.

Các truyện có nhiều thêm thắt như : Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.

Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.

Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu "bia".

Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay .

Ngày 03-12 Thánh PHANXICÔ XAVIÊ

Ngày 03-12

Thánh PHANXICÔ XAVIÊ
Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản
 (1506 - 1552)

Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyola.

 Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng : - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"

 Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".

Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

 Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.

Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.

Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

 Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.

Ngài bộc lộ cho một người bạn : "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la : "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".

 Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.

 Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại : "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".

 Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.

 Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói : "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".

 Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.

Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...

Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ?

Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại : - "Thì tôi bơi tới vậy".

- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?

Ngài nói : - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.

Rồi Ngài thêm : "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".

 Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.

 Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.

Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .

Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại : - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.

Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ : "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".

Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.

Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn ngài lên bậc chân phước. Năm 1622, Đức Grêgôriô XV suy tôn lên bậc hiển thánh phong thánh cùng với thánh Inhaxiô và đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

Ngày 30-11 Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ

Ngày 30-11

Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)

Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài : - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.

Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói : - Đây là Chiên Thiên Chúa.

Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ : - Các anh tìm chi vậy ?

Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại : - Thưa Thầy, thày ở đâu ?

Chúa Giêsu nói : - Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.

Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình : - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.

Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.

Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.

Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói : - Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9).

Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.

Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.

Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói :- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.

Êgêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.

Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc : làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.

Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.

Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.

Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện :
 - Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.

Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.

Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ .

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Ngày 24-11 CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Ngày 24-11

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 - 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.

Hàng vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.

Tuy nhiên "máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo". Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức tin :

8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC :

1. Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857
 2. Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838
 3. Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861
 4. Thánh Minh (Đaminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838
 5. Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861
 6. Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochoa) tử đạo ngày 1.11.1861
 7. Thánh Xuyên (Giuse Melchior Garcia Sampedro) tử đạo ngày 28.7.1858
 8. Thánh Y (Ignatiô Delgađô Hy Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838.

 50 VỊ THÁNH LINH MỤC :

1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860
 2. Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861
 3. Thánh Cẩm (Đaminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859
 4. Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835
 5. Thánh Dụ (Tôma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839
 6. Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838
 7. Thánh Dũng (Anrê Trần An Dũng - Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839
 8. Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798
 9. Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745
 10. Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838
 11. Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851
 12. Thánh Gia (Hyaxintha Castañeda) tử đạo ngày 7.11.1773
 13. Thánh Hạnh (Đaminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838
 14. Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838
 15. Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400
 16. Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861
 17. Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852
 18. Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856
 19. Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833
 20. Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842
 21. Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838
 22. Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840
 23. Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860
 24. Thánh Liêm (Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773
 25. Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840
 26. Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859
 27. Thánh Lựu (Phêrô Lựu) tử đạo ngày 07.4.1861
 28. Thánh Mậu (Đaminh Mậu) tử đạo ngày 05.11.1858
 29. Thánh Minh (Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853
 30. Thánh Năm (Giacôbê Nguyễn Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838
 31. Thánh Ngân (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840
 32. Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840
 33. Thánh Phan (Phanxicô Jaccard) tử đạo ngày 21.9.1838
 34. Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859
 35. Thánh Tân (Gioan Charles Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837
 36. Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745
 37. Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857
 38. Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861
 39. Thánh Tuần (Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838
 40. Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838
 41. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838
 42. Thánh Tước (Đaminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839
 43. Thánh Trạch (Đaminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840
 44. Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798
 45. Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839
 46. Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840
 47. Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861
 48. Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838
 49. Thánh Xuyên (Đaminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839
 50. Thánh Yến (Vinh Sơn Đỗ Yến) tử đạo ngày 30.6.1838

 14 THÁNH THÀY GIẢNG

1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837
 2. Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838
 3. Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837
 4. Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn Văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840
 5. Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861
 6. Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839
 7. Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838
 8. Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840
 9. Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840
 10. Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838
 11. Thánh Thanh (Gioam B. Đinh Văn Thanh ) tử đạo ngày 28.4.1840
 12. Thánh Úy (Đaminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839
 13. Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Uyển) tử đạo ngày 4.7.1838
 14. Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857

 1 THÁNH CHỦNG SINH

Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838

 44. THÁNH GIÁO DÂN

1. Thánh Đaminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859
 2. Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888
 3. Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838
 4. Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840
 5. Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
 6. Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862
 7. Thánh Phêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862
 8. Thánh Đaminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839
 9. Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839
 10. Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838
 11. Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862
 12. Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847
 13. Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859
 14 . Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840
 15. Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839
 16 . Thánh Đaminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842
 17. Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857
 18. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854
 19. Thánh Đaminh Mạo, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
 20. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839
 21. Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838
 22. Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862
 23. Thánh Đaminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
 24. Thánh Đaminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
 25. Thánh Đaminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862
 26. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859
 27. Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861
 28. Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840
 29. Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859
 30. Thánh Đaminh Toại, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862
 31. Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862
 32. Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862
 33. Thánh Anrê Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
 34. Thánh Vinh Sơn Tương, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862
 35. Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835
 36. Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858
 37. Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841
 38. Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839
 39. Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860
 40. Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859
 41. Thánh Thông (Anrê Nguyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo 15.7.1855
 42. Thánh Martinô Thọ, thuế, lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840
 43. Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
 44. Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839

Ngày 22-11 Thánh CÊCILIA Đồng Trinh Tử Đạo

Ngày 22-11

Thánh CÊCILIA
Đồng Trinh Tử Đạo

Cuộc tử nạn của thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập lại.

Nhưng những thế kỷ đầu không thấy nói gì tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô. Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài. Ba trăm năm sau cuộc tử đạo giả định này, câu chuyện của thánh nữ xem ra là một trong những áng văn đẹp nhất làm say mê tín hữu và phổ biến rộng rãi lạ thường. Câu chuyện tưởng tượng về thánh nữ Cêcilia được chen vào giữa hai vị tử đạo có thật là Valêriô và Tiburtiô. Truyện đó như sau :

Cêcilia thuộc gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một mình trong gia đình là Kitô hữu, Ngài luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma chìa tay xin Ngài phân phát của bố thí. Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra bình thản dịu dàng.

Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một mình Ngài thôi. Đáp lại lòng đạo đức của Ngài, Thiên Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên tnần hộ thủ hiện diện bên mình.

Cha mẹ Cêcilia gả Ngài cho một nhà quí phái tên là Valêriô yêu Cêcilia nồng nhiệt, ông không biết Ngài theo Kitô giáo, nhưng ông có một tâm hồn ngay thẳng.

Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho mình được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự lòng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valêriô:

- Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, vì em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh.

Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valêriô đã ao ước nhìn thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: ông phải chịu phép rửa tội đã, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: - Anh hãy tới đường Appianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc bình an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em.

Valêriô theo lời vị hôn thê của mình, đến đường Appianô và được dẫn tới vị giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia . Ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói:
 - "Hãy giữ lòng trong trắng để xứng đáng bảo vệ những triều thiên này, chúng từ vườn của Thiên Chúa, không bao giờ tàn tạ, chẳng hề lạt hương".

Thiên thần còn nói thêm : - "Hỡi Valêriô, bởi vì anh đã biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều gì anh muốn".

Valêriô có người em ông yêu thương lắm tên là Tiburtiô, ông xin : - "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con"

Thiên thần trả lời : - Điều anh xin rất đẹp lòng Chúa. Vậy hãy biết rằng: Tiburtiô và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo".

Ngay lúc ấy Tiburtiô xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đã nói cho Cêcilia ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đã tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tiburtiô muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đã lãnh nhận bí tích rửa tội do đức giáo hoàng Urbanô.

Cêcilia, Valêriô và Tiburtiô cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo.

Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachiô ngac nhiên hỏi: - Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao ?

Cêcilia trả lời : - Thật đẹp lòng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà Ngài kết án là tử tội.

Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valêriô và Tiburtiô và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đã khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachiô rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đã nói: - Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ.

Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachiô liền tống giam các Ngài. Bị vấn danh Ngài nói : - Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi.

Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời : - Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: - Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng.

Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: - Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không ?

Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachiô mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachiô truyền chém đầu Ngài lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần đã hứa.

Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hao không tàn.

Hơn một nghìn năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng đã nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh.

Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đã dâng nhiều dinh thự làm nhà thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đã được mang.

Ngày 21-11 Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh

Ngày 21-11

Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh

Nói về lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết : "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng mình và đền thánh"

Việc Đức Mẹ dâng mình và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đã nhận các trinh nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ còn được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đã phát triển sớm hơn bình thường, vì không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đã dâng mình cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết.

Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" còn cho rằng ngài đã thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đã diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh.

Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đã được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđã xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến.

Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đã thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đã mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V bãi bỏ và được đức Sixtô V tái lập.

Nhiều nhà dòng đã chọn lễ này làm ngày khấn dòng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Ngày 17-11 Thánh ELISABETH Nước Hungaria

Ngày 17-11

Thánh ELISABETH Nước Hungaria
Nữ Tu (1207 - -1231)

Em bé 4 tuổi mặc ái nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia, là con vua Hungaria. Tên Ngài là Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử Luy (Louis) mười một tuổi con của Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường Ngài lớn lên tại cung điện Thuringia.

Elisabeth xem ra đã được tiền định với niềm vui, được cầu nguyện hãm mình và mỗi ngày hy sinh một điều thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng lại. Một phần những cái người ta cho Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không phải mọi người đều vui lòng khi thấy Ngài lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của Luy tức giận vì sự hoàn thiện này.

Khi bà dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai. Thế là công chúa và con mình khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng để làm vợ của bá tước. Nhưng khi Luy đã trở lại triều đình chàng ngây ngất vì vị hôn thê trẻ của mình. Chàng chọn làm châm ngôn những đức tính : đạo đức, trong sạch và công bình. Chàng đã cử hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và nàng 14.

Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: "Bà kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu nguyện". Ngày sống của nữ bá tước được phân phối cho công việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của mình. Người ta thích kể lại một huyền thoại làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau:

Vào một ngày mùa đông. Luy đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông hỏi : - Em mang gì đó ?

Vạch áo ra ông chỉ thấy những bó hoa hồng trắng rất đẹp không mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động vì phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lý tưởng của mình hơn nữa.

Còn chính thánh nữ thì tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã hôn chân các người cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm. Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài. Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu nguyện làm chứng : "Ngài hoàn thành những công trình bác ái trong tâm hồn vui tươi và không đổi nét mặt".

Chính Elisabeth đã nói về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột : "Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu thích những kẻ cho một cách vui tươi".

Luy phải ra trận. Đây là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công mà lãnh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ, Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài thiết lập những nhà thương. Dân chúng gọi Ngài là "mẹ". Khi chồng trở về, thánh nữ thường cười nói: - Em đã dâng cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo vệ của cải của chúng ta,

Nhưng đã đến lúc những thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài ngày sau thánh nữ sinh hạ người con thứ ba. Ngài như điên lên vì đau đớn, nhưng đã chứng tỏ lòng đai độ từ bỏ thánh nữ đã có từ buổi thiếu thời. Hình ảnh cổ truyền còn diễn tả thánh nữ, bị người em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc ôm con nhỏ đi vào đường mòn sỏi đá giữa mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu bên tay...

Thực tế là người em rể đã một thời không cho Ngài được thừa hưởng của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đã chọn được nên nghèo khó. Thực vậy, Ngài đã phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và đã biết khốn cực là gì. Người đày tớ theo Ngài kể rằng: - "Bị bắt bớ bởi những chư hầu của chồng, thiếu mọi thứ của cải và vì thiếu thốn, Ngài đã phải gửi con đến những miền xa để chúng được nuôi dưỡng ở đó.

Dầu vậy, Ngài vẫn cảm tạ Chúa và đã bóc lột Ngài như thế, và trong một nguyện đường các anh em hèn mọn Ngài đã đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ bỏ tất cả.

Cậu của Ngài là giám mục miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và còn gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài. Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa.

"Lạy Chúa, con yêu biết bao. Nhưng Chúa biết con không hối tiếc việc hy sinh người yêu của con cho Chúa. Anh đã tự hiến mình cho Chúa, con cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng tỏ rằng: nếu trái với ý Chúa, con sẽ không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến sợi tóc đi nữa... Nguyện ý Chúa thành sự trong chúng con".

Người góa phụ trẻ không muốn có phần gì đối với vinh hoa trần thế nữa, đã mặc áo dòng ba Phanxicô và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một nhà thương là nơi bà ngồi ăn chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở trong một ngôi nhà bằng cây vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những hy sinh cực khổ hơn nữa.

Cha giải tội của Ngài là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ tạo nên cảm tình của hai người bạn từ hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho Ngài giữ họ gần mình nữa. Thay vào đó là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi đêm sáu lần và chính Ngài giặt giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết, Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong cùi và nói: - Tôi không đang cởi giây giầy cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở vào đại vị của em.

Đứa trẻ chết, lại một người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị hướng dẫn còn dùng đến những cư xử nghiệt ngã lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng: "ông ta có thể đánh vào mặt Ngài, nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như một người đang chiêm niệm. Ngài qua những giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực sáng.

Nhưng Elisabeth yếu dần và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19 tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đã có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.

Ngày 12-11 Thánh GIOSAPHAT

Ngày 12-11

Thánh GIOSAPHAT
 Giám mục, Tử đạo (1580 - 1625)

Thánh Giosaphat sinh năm 1580 (vài tác giả nói là 1584), ở Vladimir, thủ đô của Volynia miền Ukraine, rồi sau là một tỉnh của Balan dầu cha mẹ Ngài thuộc dòng quí phái, nhưng họ đã nhập thương trường với vài thành công và cha Ngài đã trở thành nghị viên thành phố. Giosaphat (tên rửa tội là Gioan) trước hết đã học nghề với một thương gia ở Vilna miền Lithuania và làm việc với ông tới năm 1604 khi Ngài trở thành một tu sĩ nhà dòng Basiliô ở Vilna.

Các Kitô hữu Ruthenia và Ukraina phần lớn theo nghi thức Byzantine bị phân rẽ sâu xa kể từ khi một số đông các giám mục của họ năm 1596 tuyên bố ở Brest- Litovsk hiệp nhất với Giáo hội Roma. Thượng phụ giáo chủ ở Constantinople đã cố gắng ngăn cản sự chia cắt này khỏi giáo hội chính thống và đã đặt một vị nhiếp chính cho Ruthenia vì mục đích này. Điều này chẳng quen thuộc với các bậc vị vọng địa phương vì họ coi đó như một đe dọa cho sự tự chủ của họ, nhưng lại được vương quốc Balan và chính quyền trung ương ủng hộ hoàn toàn.

Dầu vậy suốt cuộc đời, thánh Giosaphat luôn trung thành với Thánh nhân, viễn quan thiêng liêng và phụng vụ của Ngài theo nghi thức Byzantine. Ngài đã học thuộc lòng toàn sách các phép bằng tiếng Slave như một đứa trẻ, nắm giữ nghiêm nhặt việc ăn chay theo lịch Byzantine còn nhặt nhiệm hơn lịch chay tịnh của Roma nhiều, và kinh nguyện Ngài cũng dùng nhiều nhất là "Kinh nguyện Chúa Giêsu", lòng sùng kính được nhiều nhà khổ hạnh và thần trí Kitô giáo Đông phương ưa thích. Nhưng lý lẽ của nhưng người theo Chính thống hay giáo hoàng, và những thúc đẩy đưa tới đối nghịch chính trị đều vô nghĩa đối với thánh Giosaphat, Ngài không thể tin được rằng những việc sùng mộ và phong tục của dân tộc Ngài và dĩ nhiên của toàn thế giới lại không hòa được với sự trung thành đối với Giáo hội hiệp nhất dưới thánh nhan.

Ngài sớm nổi tiếng với những khắc khổ nhiệm nhặt và với kiến thức của Ngài. Ngài được tấn phong linh mục năm 1609 và sớm nổi tiếng như là vị hứơng dẫn thiêng liêng. Ngài cũng viết nhiều sách tranh luận về thời này (về phép tửa của thánh Vladimir, về sự gải mạo của các sách tiếng Slave).

Năm 1617, Ngài được thánh hiến làm giám mục Vitebsk với quyền kế vị Đức Tổng giám mục Pskov. Ngài đã làm tổng giám mục Pskov năm 1618. Được dân chúng kính trọng, Ngài lại cương quyết với những người ly khai, không chấp nhận cả những nhượng bộ chính quyền trung ương Balan định làm. Năm 1623 khi đang viếng Vitebsk, Ngài bị một đám đông theo tinh thần quốc gia quá khích tấn công chặt đầu và bắn chết. Xác Ngài được đưa về Pskov và trên đường về này đã được nhiều người tôn kính gồm cả những người thủ địch của Ngài nữa.

Cuộc tử đạo của Ngài đã bảo đảm sự hồi sinh của Giáo hội công giáo Slave. Họ khác về phong tục, kỷ luật, phụng vụ và ngôn ngữ với người Balan theo công giáo Roma, trong khi đó họ vẫn độc lập với Maxcơva và người Nga vì sự liên kết của họ với Roma. Bởi đó họ trở thành một trung tâm quan trọng của phong trào quốc gia Ruthania.

Đức giáo hoàng Urbanô VIII năm 1628 đã khởi đầu cuộc án phong thánh cho Giosaphat khi mở mộ ra và thấy xác Ngài còn nguyên vẹn. Ngài được phong chân phước năm 1643 và được phong thánh năm 1867.